29 February 2012

Sự lợi hại của tình báo Do Thái Mossad

.

1* Mở bài

Hiện nay, không một cơ quan mật vụ nào trên thế giới bí ẩn, gây sợ hải và được khâm phục hơn Mossad, cơ quan tình báo hải ngoại của Do Thái, với những cấu trúc độc nhất vô nhị, cũng là một cơ quan gián điệp vấy máu nhiều nhất trong lịch sử tình báo thế giới. Chủ trương của Mossad là ăn miếng trả miếng, nợ máu phải trả bằng máu, theo phương thức của sư thái chưởng môn phái Nga My là đuổi tận, diệt tuyệt. Kẻ thù, khi đã bị đưa tên vào danh sách tìm diệt, thì dù cho có cao bay, xa chạy đến tận góc biển chân trời nào, ẩn trốn đến bao lâu, thì cũng bị thiên la địa vỏng của Mossad tìm đến, đưa về chầu diêm chúa.

Không những thế, việc trả thù còn nhắm vào thân nhân của những tên khủng bố, trước khi ra tay thanh toán, bộ phận tâm lý chiến của Mossad lại cho gởi vòng hoa và thiệp chia buồn với những hàng chữ "Xin nhắc nhở rằng, chúng tôi không quên và cũng không tha thứ". Sau khi đưa nạn nhân về địa ngục, lại cho đăng phân ưu trên những tờ báo Á Rập, phát hành khắp cả Trung Đông.

Phương pháp hành động của Mossad là ném đá dấu tay, quyết không để lại một dấu vết nào, một chứng cớ nào, sau khi thi hành lệnh hành quyết.

Cộng đồng tình báo Do Thái có 3 cơ quan chính là: Tình báo quốc nội (Shin Bet), Tình báo Quân đội (Aman) và tình báo hải ngoại là Mossad. Mossad có nhiệm vụ thu thập tin tức tình báo, chống khủng bố, tiến hành các chiến dịch bí mật như các hoạt động bán du kích. Mossad được thàng lập tháng 12 năm 1949, đến tháng 3 năm 1951, tái tổ chức, trực thuộc văn phòng thủ tướng. Báo cáo trực tiếp với thủ tướng. Nhân viên hiện tại có khoảng 1,200.

2* Lý do sắt máu

Người Do Thái, sau khi bị diệt chủng 6  triệu người trong những trại tập trung của Đức Quốc Xã, và kể từ khi thành lập quốc gia, từng ngày, từng giờ, phải đối diện với cơn ác mộng bị xoá tên trên bản đồ thế giới, bởi khối Á Rập khổng lồ bao quanh.

Mọi người Do Thái, nam cũng như nữ, mỗi người là một tay súng, vừa học hành, làm việc và sẵn sàng chiến đấu để được sống còn, bảo vệ quốc gia, dân tộc. Những người chưa bị mất nước, chưa bị diệt chủng, chưa bị kẻ thù hăm doạ, có lẻ không hiểu nổi tâm tình của người dân đối với quốc gia, dân tộc, cũng như đối với kẻ thù, như người Do Thái cả.

Cái lợi thế của Mossad trong việc đào tạo một điệp viên, sẽ không khó gì rèn luyện một người nói tiếng Đức thành thạo, thao tác đúng với một sĩ quan Quốc Xã. Cũng không thiếu gì những người Viễn Đông, người Nga thật sự, hay một người thành thạo tiếng lóng của Hoa Kỳ, bởi vì trước kia, người Do Thái sống rải rác khắp nơi trên thế giới.

Mối lo ngại hiện nay của Do Thái là chương trình sản xuất vũ khí nguyên tử của Iran, một quốc gia Hồi giáo, chủ trương xoá tên Do Thái trên bản đồ thế giới.

3* Do Thái tấn công chương trình hạt nhân của Iran

Cựu giám đốc tình báo Mossad, Meir Dagan, không đồng ý một cuộc chiến tranh quân sự với Iran, cho rằng như thế không ngăn chặn được chương trình sản xuất vũ khí nguyên tử của nước nầy, trái lại, nó có thể dẫn đến thảm họa của một xung đột lớn trong vùng, kéo cả người Á Rập Hồi giáo như tổ chức Hamas, Hezbollah và có thể cả Syria vào nữa.

Meir Dagan ủng hộ bất cứ giải pháp nào có thể ngăn chặn chương trình hạt nhân mà không phát động chiến tranh quân sự với Iran.

Trong 8 năm giữ vai trò lãnh đạo Mossad, Meir Dagan đã tạo ra một thứ vũ khí thần kỳ, tuy không nói tên, nhưng rất nhiều người biết, đó là những cuộc tấn công chương trình hạt nhân Iran bằng một loạt sâu máy tính có tên Stuxnet.

 

Cơ sở hạt nhân của Iran được cho là mục tiêu của Stuxnet - Ảnh: Reuters

3.1. Virus Stuxnet

Điểm đặc biệt của virus Stuxnet là có thể xâm nhập vào máy tính an ninh cao mà không cần phải nối kết vào Internet, một điều tưởng chừng như không có thể làm được.

Từ tháng 6 năm 2010, Stuxnet đã tấn công, và phát ra lịnh tự hủy, đối với hệ thống máy tính thuộc cơ sở hạt nhân Natanz của Iran, nơi mà các khoa học gia đang điều khiển các máy ly tâm làm giàu chất Uranium. Do Thái là nước tạo ra thứ vũ khí ảo, phi thường nầy.

3.1.1. Lần theo dấu vết

Symantec là một công ty an ninh mạng có chi nhánh đặt tại Tel Aviv, Do Thái. Người đứng đầu chi nhánh là Sam Angel cho biết: "Stuxnet là một cuộc tấn công tinh vi mà tôi chưa từng thấy, đã tấn công vào một công nghiệp lâu đời và đặc biệt là không nối kết với Internet, là một việc hiếm có. Các nước hứng chịu cuộc tấn công nầy là Iran, Indonesia, Malaysia và Belarus".

Ngày 17-6-2010, Ulasen, một chuyên viên của công ty an ninh mạng, có tên là VirusBlokAda, tại Minsk, nhận được một Email của công ty Iran, phàn nàn rằng, những máy tính của họ liên tục bị tắc, rồi lại tự khởi động. Ulasen và một chuyên viên khác phải mất một tuần lễ để kiểm tra, thì mới phát hiện ra Stuxnet. Ulasen bèn thông báo cho các công ty an ninh mạng, trong đó có Symantec.

Một kỹ sư tại Symantec đã phát hiện ra 2 máy tính chỉ huy cuộc tấn công nầy. Một trong những máy chủ (Server) ở Malaysia và một server khác thì ở Đan Mạch.

Cả 2 máy chủ nầy đều được truy cập vào được bằng địa chỉ www.todaysfutbol.com và địa chỉ www.mypremierfutbol.com. Hai địa chỉ nầy được đăng ký dưới cái tên giả, bằng thẻ tín dụng giả, qua một công ty đăng ký Internet lớn nhất thế giới, có trụ sở ở Arizona, Hoa Kỳ.

Symantec đã liên lạc, ra và vào, tại 2 máy chủ nầy để theo dõi hoạt động của Stuxnet.

Theo phân tích, Stuxnet đã lây nhiễm khoảng 100,000 máy tính trên thế giới, trong đó, có hơn 60,000 ở Iran, hơn 10,000 ở Indonesia và 5,000 ở Ấn Độ.

Tại Natanz, các máy ly tâm được bảo vệ an ninh quân sự. Các máy ly tâm cao 1.8m, đường kính 10cm được đặt bên trong những boongke. Điều khiển hệ thống máy ly tâm là hệ thống điều hành Siemens do Đức chế tạo, chạy với Microsoft Windows.

3.1.2. (Phần kỹ thuật). Các lỗ hổng an ninh và kế điệu hổ ly sơn

Stuxnet lợi dụng các lỗ hổng trong Windows để thao tác với hệ thống. Virus vào các máy tính qua các ổ USB. Ngay khi ổ nầy được nối kết với một máy tính trong hệ thống, thì việc cài đặt virus xảy ra âm thầm.

Trước hết, Stuxnet tìm kiếm các chương trình diệt virus trong máy để phá hỏng hoặc gỡ bỏ các chương trình đó.

Bước thứ hai, Stuxnet trú ẩn trong một phần của hệ quản lý và điều hành USB đó, và thiết lập đặc số kiểm tra, mục đích để làm gì thì các chuyên viên chưa biết rõ được.

Việc lây nhiễm sẽ dừng lại khi tổng số kiểm tra đạt đến giá trị bằng con số 19790509. Symantec suy đoán con số nầy là một mã số nào đó, khi đọc ngược lại, thì con số biểu thị ngày 09-05-1979, đó là ngày mà một thương gia Do Thái tên Habib Elghanian, bị Iran xử tử.

Đây có phải là sự việc trùng hợp hay không? Hay là một kế điệu hổ ly sơn, nhằm đánh lạc hướng?

Theo thuật ngữ chuyên môn, thì trong hệ điều hành (Operating System) Windows có những lỗ hổng an ninh gọi là lỗ hổng "Zero-day", là những lỗ hổng mà chưa có "bản vá". Ngoài chợ đen, lỗ hổng thông thường giá 100,000USD bán cho những tin tặc (Hacker).

Stuxnet đã khai thác ít nhất 4 lỗ hổng an ninh như vậy. Đối với Do Thái, việc tìm ra những lỗ hổng như thế, thì ngoài khả năng của họ.

Vậy, làm thế nào mà Mossad có được những thông tin về công nghệ vi tính Siemens đang được xử dụng tại trung tâm Natanz của Iran?

Có những đồn đoán cho rằng Hoa Kỳ đã giúp Do Thái trong việc nầy, bởi vì, có một viện nghiên cứu của chính phủ Hoa Kỳ ở Idaho, nơi đó các khoa học gia nghiên cứu công nghệ điều khiển vi tính Siemens đang được xử dụng ở Natanz.

 

Giám đốc tình báo Mossad, Tamir Pardo đến Washington ngày 31-1-2012
để thảo luận về khả năng tấn công cơ sở hạt nhân của Iran

Ngày 15-1-2011, tờ New York Times cho biết, Do Thái đã thử nghiệm có hiệu quả, là virus Stuxnet đã làm ngừng quay khoảng 1,000 máy ly tâm của Iran trong tháng 11 năm 2010, thật sự đã làm chậm lại sự phát triển chương trình hạt nhân của nước nầy.

Hai nhiệm vụ chính của sâu máy tính Stuxnet là, tấn công làm mất quyền điều khiển của các máy ly tâm, và bí mật ghi lại hoạt động của các nhà máy điện hạt nhân. Hệ thống điều khiển máy ly tâm của Iran do hảng Siemens của Đức chế tạo.

Ngày 19-10-2011, tờ New York Times cho biết, các nhà nghiên cứu phát hiện một loại virus mới tên là Duqu, có ý đồ đánh cắp những thông tin cần thiết để thực hiện một cuộc tấn công kế tiếp, nhưng mục đích hoàn toàn khác với virus Stuxnet.

4* Chiến dịch ám sát các khoa học gia nguyên tử Iran

4.1. Đánh bom giết chết nhà khoa học Mostafa Ahmed-Roshan

Ngày 11-1-2012, vào buổi sáng, một người đi xe moto đã gắn một quả bom nam châm vào chiếc xe Peugeot 405, chiếc xe phát nổ làm chết tại chỗ nhà khoa học hạt nhân Mostafa Ahmed-Roshan, 2 người khác trong xe là vợ và con gái bị thương nặng. Tài xế chết sau đó tại bịnh viện.



Hiện trường vụ ám sát chuyên gia hạt nhân Mostafa Ahmadi Roshan - Ảnh: ABC

Người Iran khiêng quan tài nhà khoa học trẻ Mostafa Ahmadi Roshan, 32 tuổi, được cho là bị Mossad ám sát ngày 11-1-2012


Ahmed-Roshan, 32 tuổi, cũng là giáo sư trường đại học Allameh Tabatabai, hiện là phó giám đốc trung tâm Natanz, làm giàu chất Uranium, một cơ sở rất quan trọng đối với ngành công nghiệp hạt nhân của Iran.

Trung tâm Natanz hiện có 8,000 máy ly tâm làm giàu Uranium, mỗi máy cao 1.8m, đường kính 10cm.

Sau cái chết của Roshan, chính quyền Iran khẳng định Hoa Kỳ và Do Thái đứng sau hành động giết người nầy.

Ngoại trưởng Hoa Kỳ, bà Hillary Clinton tuyên bố: "Tôi khẳng định rằng, Hoa Kỳ không can dự vào bất cứ hành động khủng bố nào trong nước Iran cả".

Thủ tướng Do Thái, Shimon Peres cho biết: "Theo hiểu biết của tôi, thì Do Thái không can dự vào việc tấn công nầy".

Phát ngôn viên bộ quốc phòng Do Thái phát biểu: "Tôi không biết ai ra tay đối với nhà khoa học Iran nầy, nhưng chắc chắn là tôi không có một giọt nước mắt nào cả".

Thế nhưng trên trang Blog của mình, ông Richard Silverstein, một chuyên viên phụ trách về các vấn đề an ninh Iran, viết như sau: "Theo nguồn tin đáng tin cậy của tôi, thì Mossad và tổ chức MEK đã thực hiện cuộc tấn công giết người nầy". MEK (viết tắt từ một tên khác là Mojahedin-e-Khalq Organization) một tổ chức chống chính quyền Iran là Thánh Chiến Nhân dân (People's Mujahideen).

4.2. Cái chết của nhà khoa học Darioush Rezaeinejad

Ngày 23-7-2011, khoa học gia hạt nhân Iran, Darioush Rezaeinejad, 45 tuổi, bị bắn chết trong khi ông ta và vợ đậu xe chờ rước đứa con ở trường mẫu giáo. Hung thủ đi xe mô tô đã vọt mất liền sau đó.

Cũng như thường lệ, chính quyền Iran cáo buộc Do Thái và Hoa Kỳ đứng sau vụ ám sát đó.

4.3. Tình báo Mossad và phiến quân MEK đứng sau các vụ ám sát ở Iran

Ngày 10-2-2012, lần đầu tiên các quan chức Hoa Kỳ xác nhận, những vụ tấn công ám sát các nhà khoa học hạt nhân Iran, là do nhóm phiến quân MEK thực hiện. Nhóm nầy được tình báo Mossad tài trợ, huấn luyện và trang bị vũ khí.

Kể từ năm 2007 đến nay, có ít nhất là 5 khoa học gia hạt nhân Iran bị ám sát dưới nhiều hình thức.

Chính quyền Obama biết rõ chiến dịch nầy, nhưng khẳng định không nhúng tay vào. Ngoài các vụ ám sát, Mossad và MEK cũng liên quan đến một vụ nổ long trời lở đất vào ngày 12-11-2011, phá hủy trung tâm nghiên cứu phát triển hỏa tiễn ở Bin Kaneh, làm thiệt mạng thiếu tướng chỉ huy trưởng trung tâm và hơn 10 khoa học gia khác. Iran bị một cú thiệt hại quá nặng nề.

4.4. Lời thú tội của một thành viên MEK

"Tôi tên là Majid Jamali Fashi. Cách đây 3 năm, tôi tiếp xúc lần đầu tiên với Mossad tại Istanbul, Thổ Nhỉ Kỳ. Tôi được yêu cầu cung cấp tin tức về một số nơi ở Tehran. Tôi đã viết ra 30 trang, và đến giao cho toà lãnh sự Do Thái ở Istanbul. Sau đó, tôi được huấn luyện ám sát, tập dượt bắn súng, chạy trốn, dùng quần áo và mỹ phẩm để hoá trang. Trở về Tehran, tôi được cấp bom, súng đạn, 2 điện thoại vệ tinh và một chiếc Honda 125 phân khối.

Ngày 12-2-2010, qua 2 chiếc điện thoại, tôi nhận lịnh đánh bom giết khoa học gia Ali Mohammadi. Tôi dựng chiếc Honda có gắn bom, sát bên cạnh chiếc xe của Ali Mohammadi, khi ông từ trong nhà ra đến chiếc xe, thì tôi dùng remote control kích nổ. Tôi được thưởng trước 120,000 USD".

Thanh niên tên Majid Jamali Fasha bị kết án tử hình ở Iran.

 

Ngày 29-8-2011, Majid Jamali Fashi (MEK) đã bị kết án tử hình. Ảnh: Reuters

4.5. Iran bại trận trong cuộc chiến gián điệp

Kể từ năm 2005, cơ quan phản gián Iran Oghab-2 đã có nhiệm vụ bảo vệ bí mật tất cả những hoạt động có liên quan đến chương trình hạt nhân của nước nầy, bao gồm tên tuổi các nhà khoa học, các cơ sở, kế hoạch chương trình…Thế nhưng Oghab-2 đã thất bại trong nhiệm vụ.

-         Tháng 3 năm 2007, thiếu tướng Ali Reza Asgari, thứ trưởng quốc phòng, lãnh tụ Vệ binh Cách mạng, đã đào thoát sang tỵ nạn tại Hoa Kỳ. Đó là, trong chuyến công tác đến Damascus, Syria, ông để vợ ở lại đó, rồi thuê xe chạy đến biên giới, đưa hối lộ 1,500USD cho biên phòng để vào Istanbul, Thổ Nhỉ Kỳ vào ngày 7-2-2007, mà không cần giấy thông hành. Báo cáo cho biết, đã có 2 người đặt phòng cho ông để ở 3 đêm tại khách sạn Ceylan Hotel. Đến ngày 9-2 thì ông biến mất. Tờ Sunday Times cho biết, tướng Asgari là một kho tàng quý báu của tình báo Hoa Kỳ. Iran cho rằng Asgari bị bắt cóc và bị giết, họ đã khai tử ông. Hoa Kỳ cũng thừa cơ hội, khai sanh cho Asgari, với cái tên và lý lịch khác.

-         Cũng trong năm 2007, khoa học gia nguyên tử Ardeshir Hassanpour bị chết một cách bí ẩn mà không tìm ra thủ phạm.

-         Kế đến, tổng thống Obama công khai tuyên bố một cơ sở bí mật về hạt nhân ở Fordo. Thế là bí mật của Iran đã bật mí trước công luận.

-         Hoa Kỳ còn biết được biện pháp bảo vệ bí mật, là Iran đã chuyển 75% chương trình làm giàu Uranium ở cấp thấp (Low Enriched Uranium-LEU) sang Nga, rồi sau đó đưa sang Pháp để chuyển đổi thành năng lượng hạt nhân.

Như vậy, xem như Iran bị thảm bại trên mặt trận gián điệp với Do Thái và Hoa Kỳ.

5* Mossad đuổi tận diệt tuyệt thủ phạm vụ thảm sát Munich 1972

5.1. Cuộc thảm sát ở Munich năm 1972

Cuộc thảm sát xảy ra trong thời gian diễn ra Thế Vận Hội Mùa Hè năm 1972 ở Munich, Tây Đức, khi các lực sĩ Do Thái bị tấn công bởi Tổ Chức Tháng Chín Đen (Black September Organization-BSO), một nhóm vũ trang thuộc tổ chức Fatah của Yasser Arafat. Kết quả, 11 lực sĩ Do Thái bị giết.

Ngày 5-9-1972, lúc 4g 30 sáng, 5 tên khủng bố Palestine trùm mặt nạ đen, leo qua hàng rào dây xích, xâm nhập vào Làng Thế Vận. Nhiều người trông thấy nhưng họ cho đó là việc bình thường, vì nhiều lực sĩ ra vào theo cách đó. Vũ khí được dấu trong các túi lực sĩ. 3 người bên trong đến nhập bọn. Họ dùng chìa khoá đánh cắp được, xâm nhập vào 2 phòng của các lực sĩ Do Thái.

Trọng tài môn đô vật Do Thái, Yossef Gutfreund, nghe tiếng động ngoài cửa bèn bước ra xem. Trước mặt ông là một người trùm mặt nạ đen, tay cầm súng, ông la lớn "Anh kia! Ra khỏi đây ngay!", miệng la tay vớ cặp tạ nặng 135kg ném về phía tên khủng bố. Thấy có động, trưởng đoàn lực sĩ Do Thái Tuvia Sokolovsky, lực sĩ chạy bộ Shaul Ladany, 4 lực sĩ khác và 2 bác sĩ nổ lực chạy trốn, nhưng tất cả bị khống chế bởi những họng súng của những tên Palestine.

Trên đường di chuyển từ phòng nầy qua phòng khác, lực sĩ đô vật Moshe Weinberg đánh bất tĩnh và đâm chết một tên, trước khi bị bắn chết. Đồng thời, lực sĩ cử tạ Yossef Romano, 31 tuổi, tấn công làm bị thương một tên khác trước khi bị bắn chết. Cuối cùng, những tên khủng bố đã chế ngự được 9 lực sĩ Do Thái và bắt làm con tin.

Thành viên Tháng 9 Đen

Đến 9giờ 30 sáng, nhóm khủng bố tự nhận là thành viên của Tổ chức Tháng Chín Đen và đưa ra những yêu sách để trao đổi con tin:

-         Nhà nước Do Thái phải thả 234 tù nhân người Palestine.

-         Chính phủ Đức phải cung cấp phương tiện và bảo đảm an toàn để họ rời Tây Đức.

Sau những giờ thương lượng căng thẳng, nhóm khủng bố chấp nhận một kế hoạch:

-         Nhóm khủng bố được trực thăng đưa đến phi trường nằm trong căn cứ NATO ở Firstenfeldbruck, ở đó, một phi cơ sẽ đưa họ đến Cairo, thủ đô Ai Cập.

-         Những con tin Do Thái sẽ được xe bus đưa đến 2 chiếc trực thăng, để đến căn cứ NATO.

Trong khi di chuyển, an ninh Tây Đức mới phát giác ra là, đã có 8 tên khủng bố, chớ không phải 5 tên mà theo kế hoạch, các tay súng bắn tỉa phải triệt hạ tại phi trường. Như vậy, 3 tên nầy  không phải là mục tiêu triệt hạ, đó là đầu mối gây ra cuộc thảm sát.

Lúc 10giờ tối, tại căn cứ NATO, các xạ thủ bắn tỉa đã hạ 5 tên khủng bố theo kế hoạch.

Lúc 11giờ tối, khi nghe tin 5 tên khủng bố bị bắn hạ, các cơ quan truyền thông loan tin nhầm lẫn, là các con tin Do Thái đã được cứu thoát.

Khoảng 1 giờ sau, 3 tên khủng bố còn lại dùng lựu đạn cho nổ một chiếc trực thăng, 9 lực sĩ ở chiếc trực thăng còn lại, bị lôi ra bắn chết từng người.

3 giờ sáng, phóng viên Thế Vận Hội của đài ABC, Jim McKay, mắt ứa lệ, tuyên bố "Họ chết tất cả rồi".

3 tên khủng bố còn lại bị bắt giữ, thế nhưng sự việc chưa kết thúc. Đó là ngày 29-10-1972, một nhóm Palestine lại cướp chiếc phi cơ của hảng hàng không Đức, Lufthansa, và đòi chính phủ Đức phải thả 3 tên khủng bố. Đức thả 3 người trước sự giận dữ của người Do Thái.

5.2. Chiến dịch Cơn Thịnh Nộ Của Thượng Đế (Operation Wrath of God)

Sau vụ 11 lực sĩ Do Thái bị giết, nữ Thủ tướng Golda Meir ra lịnh cho Mossad truy lùng, lập Danh Sách Tìm Diệt để tiêu diệt tất cả những người trực tiếp hay gián tiếp liên hệ đến vụ thảm sát, không chừa một móng nào cả.

Tướng Aharon Yariv, cố vấn của thủ tướng về chống khủng bố, cùng với bộ trưởng quốc phòng Moshe Dayan (Tướng Độc Nhản) và giám đốc Mossad là Zvi Zamir thành lập Chiến dịch Cơn Thịnh Nộ Của Thượng Đế (Operation Wrath of God) để tiêu diệt tất cả các thủ phạm.

5.2.1. Chiến dịch Biệt đội Lưỡi Lê (Operation Bayonet)

Biệt đội Lưỡi Lê có nhiệm vụ truy tìm, lập danh sách để triệt hạ tất cả những người có liên hệ đến vụ thảm sát Munich 1972.

Công việc đầu tiên là lập danh sách tìm diệt. Với sự trợ giúp của những người Palestine trong Tổ Chức Giải Phóng Palestine (Palestine Liberation Organization-PLO) nằm vùng, làm việc cho Mossad, và các tổ chức gián điệp đồng minh, một danh sách được xem như sổ đoạn trường được thành lập.

5.2.2. Các thủ phạm đền tội

Nạn nhân đầu tiên là Abdel Wael Zwaiter, đại diện cho PLO ở Ý.

Ngày 16-10-1972, hai nhân viên Biệt đội Lưỡi Lê, phục kích tại nhà riêng của Zwaiter, đã nã 11 phát vào thành viên Tháng Chín Đen nầy. Mỗi phát đạn là để báo thù cho một lực sĩ trong 11 người bị sát hại ở Olympic Munich 1972.

Thủ phạm thứ hai đền tội. Tiến sĩ Mahmoud Hamshari, đại diện Palestine ở Paris, lãnh tụ Tháng Chín Đen ở Pháp.

Ngày 8-12-1972, một điệp viên Mossad giả danh là một nhà báo gọi điện thoại về nhà riêng của đương sự, khi Hamshari nhấc máy lên, chưa kịp nói Allo thì nổ tung, đầu nát như tương, do một quả bom cài trước được kích hoạt.

Vụ thanh toán thứ ba xảy ra ở London. Một thành viên Palestine có tên trong danh sách tìm diệt đã bị ai đó đứng sau lưng, xô anh ta xuống đường rầy xe điện chưa kịp ngừng ở trạm chính trong giờ cao điểm, hành khách đông đảo đang đứng chờ để lên xe.

Vụ ám sát thứ tư.

Đêm 24-1-1973, Hussein al-Bashir, người Jordan, lãnh tụ Tháng Chín Đen ở Cyprus, (đảo Síp), khi vói tay tắt ngọn đèn ngủ, thì quả bom cài sẵn dưới giường phát nổ, làm banh xác anh ta và phá hỏng cả căn phòng trong khách sạn Nicosca, Cyprus. Thủ phạm không để lại dấu vết nào cả, và đương nhiên là Do Thái phủ nhận việc ám sát đó.

Sau những vụ ám sát, người Palestine đề phòng và bảo vệ cẩn mật hơn, nên Mossad thay đổi chiến thuật. Thế là Chiến Dịch Mùa Xuân của Tuổi Trẻ (Operation Spring of Youth) ra đời.

Chiến dịch Mùa Xuân của Tuổi Trẻ cũng nằm trong chiến dịch lớn là Cơn Thịnh Nộ của Thượng Đế.

Mục tiêu là 3 thành viên cấp cao của Tháng Chín Đen sống trong một toà nhà 6 tầng được canh gác chặt chẽ ở thủ đô Beirut của Li Băng.

Đêm 9-4-1973, 3 lính cảm tử Do Thái là Sayeret Matkal, Shayetet 13 và Tzanhanim, từ một chiến hạm trang bị hoả tiễn đậu ngoài khơi bờ biển Li Băng, 3 cảm tử dùng thuyền cao su vào bờ. Trên bờ, đã có những điệp viên Mossad chờ sẵn, với những chiếc xe đã thuê ngày hôm trước, chở tất cả vào thủ đô Beirut. Những lính cảm tử mặc thường phục và cũng có người hoá trang giả làm phụ nữ.

Ở Beirut, điệp viên Mossad và lính cảm tử tấn công vào toà nhà 6 tầng để đưa 3 thành viên cao cấp Palestine đi đầu thai, đó là Muhammad Youssef al-Najjar và vợ, Kamal Adwan và Kamal Nasser.

Quân Do Thái gặp sự kháng cự mãnh liệt, nhưng họ cũng hoàn thành nhiệm vụ, và còn phá hủy một trạm xăng và một cơ sở sản xuất vũ khí của địch. Trong trận đụng độ, 2 cảnh sát Li Băng,

1 công dân Ý và khoảng 10 người Palestine bị thiệt mạng. Phía Do Thái có 2 người hy sinh, những người khác rút lui an toàn.

Ngày 11-4-1973, một thành viên Tháng Chín Đen trên đường đến Cyprus để thay thế Hussein al-Bashir đã bị ám sát trước đó, anh ta bị giết bởi một quả bom được cài trong phòng một khách sạn ở Athens, Hy Lạp.

Kể từ 28-6-1973 đến 21-10-1986, đã có 10 thành viên Tháng Chín Đen có tên trong sổ đoạn trường bị triệt hạ bởi lệnh hành quyết của Chiến Dịch Cơn Thịnh Nộ của Thượng Đế.

5.2.3. Cuộc săn lùng gay go tên Hoàng Tử Đỏ Ali Hassan Salameh

Ali Hassan Salameh (1940 - 22-1-1979) là một trong những người điều khiển cuộc bắt cóc các lực sĩ Do Thái ở Munich năm 1972. Bí danh là Abu Hassan.

1)    Những thất bại trong vụ hạ sát Salameh

Sau một năm truy lùng, Mossad nhận được tin Salameh đang sống tại một thị trấn nhỏ tên Lillehammer của Na Uy.

Ngày 21-7-1973, toán ám sát Mossad đã bắn chết Ahmed Bouchiki, một người Ma Rốc làm bồi bàn, không có liên hệ gì tới vụ thảm sát và với Tháng Chín Đen cả. Sự giết lầm người do điềm chỉ viên nhận diện sai, và 6 nhân viên Mossad bị Na Uy bắt giữ, riêng người chỉ huy tên Michael Harari đã tìm các trốn thoát, 5 người còn lại bị tống giam về tội giết người, và đến năm 1975 mới được thả về Do Thái.

Vụ Mossad giết lầm người làm cho thế giới phẩn nộ và lên án Do Thái, nên thủ tướng Golda Meir ra lịnh hủy bỏ chiến dịch Wrath of God, tuy nhiên, Mossad vẫn tiếp tục truy lùng Salameh.

Vào tháng 1 năm 1974, được tin Salameh sẽ đến Thụy Sĩ để gặp thủ lãnh Yasser Arafat của PLO tại một nhà thờ vào ngày 12-1-1974. Gián điệp Mossad triển khai phương án đến Thuỵ Sĩ. Hai sát thủ Mossad đột nhập vào nhà thờ trong lúc 3 người Á Rập đang hội họp. Một tên Á Rập rút súng nhưng tức khắc bị bắn hạ tất cả. Lục soát nhà thờ, không thấy Salameh đâu cả, nên toán Mossad liền tẩu thoát.

Một lần nữa, gián điệp Do Thái lại thất bại trong việc tìm giết thủ phạm Salameh.

Sau đó không lâu, 3 điệp viên Mossad bay đến Luân Đôn, Anh quốc, để gặp một "người đưa tin", hứa sẽ cung cấp tin tức về Salameh, nhưng người đưa tin không đến, thế là các  sát thủ Do Thái biết rằng họ đã bị lộ. Tình cờ, một thiếu nữ tuyệt sắc, khêu gợi, đã quyến rủ được một trong 3 điệp viên Mossad đến khách sạn Europa với cô, và thình lình anh ta bị bắn hạ tại phòng ngủ của khách sạn. Nguồn tin địa phương cho biết, đó là một nữ sát thủ chuyên nghiệp, giết mướn độc lập. Họ không tìm ra manh mối của người đã thuê nữ sát thủ đã giết đồng đội. Sau đó, thiếu nữ bị giết chết gần nhà của cô.

Toán Mossad nầy bị kỷ luật, vì không tuân lịnh ngừng chiến dịch, và hành động ngoài mục đích.

Lại thêm một lần thất bại nữa.

Mãi đến 5 năm sau, dưới thời thủ tướng Menachem Begin của Do Thái, chiến dịch tìm diệt Salameh lại tiếp tục.

Thật ra, Salameh đã được CIA xử dụng như là người liên lạc giữa Hoa Kỳ và Tổ Chức Giải Phóng Palestine (PLO), nên được CIA bảo vệ từ năm 1970 cho đến ngày chết, 22-1-1979.

Ali Hassan Salameh thuộc gia đình giàu có, nhiều quyền lực, xài tiền rộng rãi về gái đẹp và chơi xe hơi thể thao đắt tiền, được gọi là Hoàng Tử Đỏ (Red Prince)

Salameh cưới vợ, vốn là một hoa hậu hoàn vũ của năm 1971. Đi hưởng tuần trăng mật ở Hawaii, rồi đến sống tại khu Disneyland, California.

Đến tháng 8 năm 1978, khi vợ có thai, Salameh trở về Beirut, Li Băng.

Adolf Eichmann chủ một trang trại nuôi thỏ ở Argentina

2)     Mỹ nhân kế với cái bẫy trên giường

Mossad phải mất 6 năm mới tìm ra được tung tích của một trong những tên đầu xỏ của vụ thảm sát Olympic Munich 1972. Thế là nữ điệp viên Penelope được cử tham gia công tác. Nữ điệp viên Do Thái được tuyển chọn rất kỹ, có thể nói là "người giỏi nhất trong vạn người".

Các nữ đặc vụ phải thông thạo tiếng Anh, tiếng Á Rập và các thứ tiếng Âu châu. Phải trải qua những giai đoạn huấn luyện đầy gian khổ, phải nhuần nhuyễn kỹ năng gián điệp như theo dõi, chống và cắt bám đuôi, ăn trộm tài liệu, nghe lén, xử dụng các loại vũ khí, biết lái các loại xe, đội lốt, giả dạng, nằm vùng…và hơn thế nữa, phải rất xinh đẹp và có khả năng kéo kẻ thù lên giường.

Penelope là biệt danh của thiếu nữ tên Erika Mary Chambers, sinh ngày 6-7-1952 tại thành phố Liverpool, Anh quốc. Tốt nghiệp đại học năm 1974.

Penelope đến Beirut với thông hành mang quốc tịch Anh, lý lịch tốt nghiệp đại học Southampton, làm việc cho một tổ chức từ thiện có trụ sở tại Luân Đôn, đến công tác giúp đở những trẻ em trong trại tỵ nạn của người Palestine, nơi mà Ali Hassan Salameh thường đến ủy lạo và giúp đở trẻ em trong trại.

Penelope lân la làm quen với Salameh. Và điều cuối cùng đã đến. Mặc dù đã có vợ là hoa hậu hoàn vũ, nhưng vốn hảo ngọt, nên Salameh đã bập Penelope.

Cũng có vài lần đang vui vẻ mặn nồng với nhau, Penelope định ra tay, nhưng không thành. Sau một thời gian khắng khít, Penelope nắm được thói quen của kẻ thù, đó là thói quen thường hay đến thăm nhà bà già vợ vào những chiều thứ bảy.

Vào lúc 3giờ 35 chiều ngày 22-1-1979, đoàn xe 2 chiếc Chevrolet wagon trên đó có Salameh và 4 cận vệ, trên đường đến dự tiệc sinh nhật mẹ vợ ở khu phố Ghobari. Khi đoàn xe vừa đến chiếc Wokswagen màu đỏ đậu bên đường, chứa 100 kg chất nổ plastic, thì ở tầng lầu 8 của căn hộ, Penelope kích hoạt chất nổ bằng remote control, tiếng nổ long trời lở đất làm cho 4 cận vệ chết ngay tại chỗ, Salameh bị thương nặng và chết ở bịnh viện một tháng sau đó. Tội nghiệp cho 4 người đi đường vô tôi, không có tên trong sổ đoạn trường, phải chết oan.

Penelope và 14 người của Mossad biến mất, không để lại một dấu vết nào. Đó là lý do để cho Mossad mạnh miệng chối leo lẻo về hành động ám sát.

Adolf Eichmann

Đối với kẻ thù, khi đã bị đưa vào danh sách tìm diệt, thì dù cho có chạy trốn đằng trời cũng khó thoát khỏi bàn tay của Mossad. Như trường hợp của tên đồ tể Đức Quốc Xã Adfolf Eichmann, đã tham gia vào vụ tàn sát 6 triệu người Do Thái trong các trại tập trung. Sau khi Đức đầu hàng, Eichmann trốn sang Áo, rồi trở về Đức, sang Ý và cuối cùng đến Argentina, Nam Mỹ.

Tình báo Do Thái vẫn kiên trì truy lùng suốt 10 năm, xem qua hàng trăm ngàn tài liệu và cuối cùng phát hiện hắn sống ở Argentina với cái tên mới là Ricardo Klement. Ngày 11-5-1960 Do Thái bắt cóc đưa về Tel Aviv. Sau 14 tuần lễ xét xử, với 1,500 tài liệu và hơn 100 nhân chứng, vài chục hồ sơ từ 16 quốc gia gởi đến. Bị kết án tử hình và bị treo cổ lúc 12 giờ đêm ngày 31-5-1962.

6* Kết

Tình báo Mossad đã thực sự làm trở ngại chương trình hạt nhân của Iran, đồng thời cũng gây nhiều thiệt hại cho nước nầy.

Nổ lực làm giàu chất Uranium của Iran khiến cho Hoa Kỳ, Âu châu và Do Thái lo ngại. Cơ quan Năng Lượng và  Nguyên Tử Quốc Tế (IAEA=International Atomic Energy Agency) tuyên bố là họ đã nắm trong tay những bằng chứng  cho thấy Iran đã tiến hành những thử nghiệm liên quan đến việc phát triển một thiết bị, kích nổ hạt nhân xử dụng trong vũ khí nguyên tử.

Tin tức của IAEA khiến cho Hoa Kỳ và Liên Âu siết chặt sự trừng phạt Iran, chủ yếu là việc bán dầu khí và phong tỏa tài chánh.

Cuộc đọ sức giữa Iran và Hoa Kỳ đã đến giai đoạn công khai. Tổng thống Obama mở một chiến dịch rộng lớn, siết chặt gọng kềm trừng phạt Iran.

Ở Liên Âu, tổng thống Pháp, Nicolas Sarkozy, chủ trì, ráo riết vận động một cuộc bỏ phiếu tăng cường biện pháp trừng phạt Iran.

Ở châu Á, Nhật, Nam Hàn, Ấn Độ đang tìm nguồn dầu khác ở các nước Arab Saudi và các quốc gia dầu hỏa trong vùng. Hoa Kỳ không hy vọng thuyết phục được Trung Cộng, nước nhập cảng 1/3 sản lượng dầu, mỗi ngày 2.2 triệu thùng từ Iran. Tuy nhiên, Trung Cộng cũng đang tìm nguồn dầu khác, vì đã có sự tranh chấp với Iran về một hợp đồng dầu khí.

Tổng thống Obama đã ký một quyết định ngăn chặn những chuyển khoản tài chánh quốc tế đối với Iran. Quyết định nầy làm kẹt 5 tỷ đô la của Iran tại các ngân hàng ở Nam Hàn.

Các nhà máy lọc dầu Iran vẫn hoạt động tốt, nhưng gặp khó khăn trong việc bán dầu và nhất là việc thu tiền bán dầu từ các ngân hàng bị tác động bởi quyết định cấm vận tài chánh của Hoa Kỳ.

Vừa qua, tổng thống Mahmoud Ahmadinejad sang Cuba, có lẻ để học hỏi kinh nghiệm chống cấm vận mà Cuba đã chịu từ bấy lâu nay.

Trúc Giang

Minnesota ngày 28-2-2012

Phiên tòa xét xử Adolf Eichmann (ngồi trong lồng kính) – Ảnh: Daily Mail

28 February 2012

Đừng bao giờ quên các Cha Cố buổi ban đầu …

Đừng bao giờ quên các Cha Cố buổi ban đầu …

Hoàng Lộc

Công giáo Việt Nam là nguyên nhân, là lực vận động, là kẻ tòng phạm, và là thành quả của cuộc xâm lăng rồi đô hộ

của Thực dân Pháp trong lịch sử nước ta là hoàn toàn đúng. Tuyệt đối đúng.

Năm 1787, Giám mục Pigneau de Béhaine (1741-1799) đã cùng với Hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh, con trai trưởng lúc bấy giờ mới 7 tuổi của chúa Nguyễn Ánh, đến Paris bệ kiến vua Louis 16,  gặp Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Armand Marc để nhượng đất (đảo Côn Lôn/Poulo Condor và cảng Đà Nẳng/Tourane), xin quân viện (4 tàu chiến và 1,650 lính Pháp) và ký hiệp ước Versailles (28-11-1878), hiệp ước đầu tiên bán nước Việt Nam cho Pháp.

Hiệp ước Versailles tuy không được áp dụng, nhưng từ đó và nhờ đó, Giám mục Pigneau de Béhainemột số giáo sĩ và các sĩ quan hiếu động nhiều tham vọng Pháp đã nhân cơ hội nầy thực hiện âm mưu thôn tính Việt Nam. Với những mưu đồ đen tối, với những thủ đoạn xảo quyệt, họ đã thúc đẩy được chính phủ Pháp đem quân xâm chiếm Việt Nam, rồi cùng với bọn tay sai thông ngôn và giáo quyền bản xứ đặt một nền đô hộ hà khắc và tàn bạo, vắt kiệt tài nguyên và nhân lực của dân tộc ta hơn 80 năm trời.

Trong tác phẩm nghiên cứu lịch sử nổi tiếng Việt Nam Pháp Thuộc Sử (nxb Đại Nam, 1961, Sài Gòn), giáo sư Phan Khoang (trước 1975 là giáo sư đại học Văn Khoa và đại học Huế, biên tập viên Tập san Sử Điạ) đã đưa ra những sử liệu rất rõ ràng về vai trò của các giáo sĩ Kitô giáo.

Ông tóm tắt:

"Những người đề xướng đầu tiên cuộc chinh phục nước Nam là mấy sĩ quan hải quân của hạm đội Pháp ở biển Trung Quốc như các ông Cécille, Rocquemaurel, Fourichon, Jaurès Maison-Neuve, mấy đại diện ngoại giao kế nhau ở Toà lãnh sự Pháp ở Macao như các ông Forth Rouen, De Courcy, Bourboulon; các ông ấy đã nhiều lần đề nghị với chánh phủ đem quân can thiệp ở nước Nam.

Nhưng hoạt động hăng hái hơn cả để làm cho chánh phủ Pháp quyết định là các Giáo sĩ, nhất là giáo sĩ Huc, Giám mục Retord, Giáo sĩ Libois và Giám mục Pellerin.

Giáo sĩ Huc trước đã dâng vua Napoléon III một kế hoạch thành lập một công ty để lo việc chinh phục và khai thác các xứ Cao Ly, Đà Nẵng, Madagascar; năm 1857 lại dâng một bức thư nhắc lại Pháp-Nam hiệp ước 1857 và sự cần thiết phải thiết lập gấp một căn cứ ở nước Nam. Chính lá thư ấy đã làm cho chánh phủ vua Napoléon III quyết định đặt một ủy ban để Nghiên Cứu vấn đề Nước Nam (Commission de la Cochinchine), trong ủy ban ấy, Giáo sĩ Huc đã tỏ bày ý kiến. Sau khi dâng bức thư kia, Giáo sĩ Huc được vua vời đến diện yết, và Giáo sĩ đã làm cho vua tin tưởng ở lời nói mình ». (đọc toàn bộ sự kiện nầy ở 3 trang 115, 116 và 117)

Tuy nhiên, thực ra, âm mưu xâm chiếm Việt Nam đã có từ thời giáo sĩ Alexandre de Rhodes kể từ khi ông ta đến Việt Nam (1624). Nghĩa là từ hơn 200 năm trước Pigneau de Béhaine.

Hồ sơ mật trong các văn khố của Hội Truyền Giáo Hải Ngoại Pháp và nhất là của AOM (Archives Nationales de France, Section d'Outre Mer) ở Aix-En-Provence (Pháp), đã cho phép các sử gia xác định âm mưu truyền đạo VÀ thôn tính Việt Nam của Thiên Chúa giáo vốn có từ thời Cố đạo Alexandre de Rhodes (1591-1660).

Cố đạo Alexandre de Rhodes đến Việt Nam năm 1624 và vĩnh viễn rời Việt Nam năm 1645. Thời gian ở Việt Nam ông viết rất nhiều sách giúp người Âu Châu biết về tình hình chính trị, địa hình, địa vật, sông núi, sản phẩm, tài nguyên, v.v… của xứ Việt Nam. [Tuy là một giáo sĩ Dòng Chúa Cứu thế Jesuit nhưng ông vẫn nói láo trong những báo cáo, miễn sao  kích thích được lòng tham của quan chức chính phủ Pháp và chức sắc Giáo hội Pháp để họ yểm trợ cho ý đồ của ông (1)]. Ông cũng tiếp tục công trình của các Giáo sĩ Bồ Đào Nha trước đó (Francisco de Pina, Gaspar do Amaral và  Antonio Barbosa), dựa vào chữ La tinh mà chế ra chữ Quốc ngữ, để trước hết là cho giáo dân dễ học Kinh thánh và dễ dàng giao thiệp với những thừa sai ngoại quốc. Nhiều lần ông đã bị chúa Trịnh đuổi đi, nhưng từ Áo Môn, năm 1640 ông tìm cách trở lại Việt Nam để hoạt động cho đến năm 1645:

Ông viết: "Tôi tin rằng Pháp, vì là nước ngoan đạo nhất thế giới, sẽ cung cấp cho tôi nhiều binh sĩ để đi chinh phục toàn thể phương Đông. Cũng như ở đó tôi sẽ có cách có nhiều Giám mục vốn là các Cha và các Thầy của chúng ta ở trong nhà thờ. Tôi rời La Mã ngày 11-9-1652 với ý định đó."

Năm 1658, Vatican bổ nhiệm hai vị đại diện Tông Toà người Pháp là Francois Pallu (1626-1684) và Lambert De la Motte (1637-1693) đại diện trực tiếp Giáo hoàng… "Lịch Sử của Hội này (Hội Truyền Giáo Hải Ngoại Pháp) sẽ gắn liền chặt chẽ với lịch sử chiếm đóng của Pháptại Việt Nam" (La Société des Missions Etrangères fut alors créée dont l'histoire allait être intimement liée avec celle de l'implantation francaise au Vietnam). (Xem Đạo Thiên Chúa và Chủ nghĩa Thực dân tại Việt Nam, luận án tiến sĩ của ông Cao Huy Thuần, bản Việt văn trang 47, 48, bản Pháp văn trang 9, 10).

Giáo sư sử học Joseph Buttinger (một trong ba người "cha đở đầu" của chế độ Ngô Đình Diệm. Hai người kia là Hồng y Spellmann và Ngoại trưởng Dulles) trong Vietnam a Political History (trang 63, 64) cũng có những nhận định như của ông Cao Huy Thuần, được tạm dịch ra như dưới đây:

« Công cuộc phát triển đạo Thiên Chúa tại Đông Dương trở thành công tác đặc biệt của một tổ chức Pháp được gọi là Hội Truyền Giáo Hải Ngoại (Society of Foreign Mission) thành lập năm 1664 tại Paris. Tổ chức này đi song hành với Công ty Đông Ấn Pháp do các giáo sĩ Paris, Rouen thành lập.

"Đặc biệt, (vị  đại diện Tòa thánh) Pallu là một nhà kế hoạch chính trị, thường đi xa hơn các chỉ thị của cấp trên. Có thể gọi ông ta là người sáng chế mô thức thuộc địa trong đường lối chính trị tại Paris với phương sách "đã rồi" (accomplished facts). Ngoài những công việc đã thực hiện tại Á Châu trong khuôn khổ của Hội truyền Giáo mới thành lập, Francois Pallu còn lo việc tại Pháp, hợp tác với chính phủ khuếch trương ảnh hưởng Pháp tại Viễn Đông."

Tiến sĩ Yoshiharu Tsuboi, giáo sư đại học Đông Kinh (Todai), trong cuốn "L'Empire Vietnamien Face à la France et à la Chine" đã kết luận như sau:

"Trong công cuộc "Phúc âm hóa" nước Việt Nam có một tổ chức và năm giáo sĩ người Pháp đã giữ một vai trò quan trọng: Hội Thừa Sai Paris và các giáo sĩ Alexandre de Rhodes, Francois Pallu, Pigneau de Béhaine, François Marie Pellerin và Paul François Puginier". (đọc chi tiết từ trang 31 đến 57)

Như vậy là từ khi đến Việt Nam năm 1624, Alexandre de Rhodes đã nghiên cứu tình hình chính trị, kinh tế, địa dư nước Việt Nam, huấn luyện và tổ chức những tập đoàn tín đồ Thiên Chúa giáo bản xứ trung thành với Toà thánh Vatican rồi trở về Âu châu năm 1645 và qua năm 1646trình bày kế hoạch Phúc âm hóa Việt Nam và chiến lược thôn tính Việt Nam cho chính phủ Pháp.

Do đó, bây giờ, khi kết luận rằng Công giáo Việt Nam là nguyên nhân, là lực vận động, là kẻ tòng phạm, và là thành quả của cuộc xâm lăng rồi đô hộ của Thực dân Pháp trong lịch sử nước ta là hoàn toàn đúng. Tuyệt đối đúng.

Hoàng Lộc

……

[Trích đoạn từ "Chuyện buồn Nước tôi", Văn Tân, Houston, 2012]

(1) De Rhodes returned to Rome by 1649 and pleaded for increased funding for Catholic missions to Vietnam , telling somewhat exaggerated storiesabout the natural riches to be found in Vietnam . Around 1650, he reported to Rome that there were about 200,000 baptized Vietnamese, and every year there were 15,000 new converts. Those numbers turned out to be inflated, in retrospect, there were probably 60,000 Catholics in Vietnam at the end of de Rhodes'stay

http://www.advite.com/ AlexandredeRhode.htm

ĐÀI TRUYỀN HÌNH HAI MANG: SINH BẮC TỬ NAM

ĐÀI TRUYỀN HÌNH HAI MANG: SINH BẮC TỬ NAM

Dân Chì

Theo kinh nghiệm lịch sử, không có phe thù nghịch nào chấp nhận bất cứ cái gì từ phía bên kia. Thời đệ nhị thế chiến, đài phát thanh nổi tiếng BBC, không thể gởi thông tín viên của đài, công khai hoạt động ở nước Đức hay cả những vùng do quân Quốc Xã chiếm đóng, tất nhiên là các nhân viên đài BBC, nếu có mặt, cũng cần phải lẫn tránh tối đa tất cả những gì có quan hệ đến Quốc Xã, nhất là tổ chức tình báo Gestapo.

Trái lại ở Luân Đôn, Hoa Thịnh Đốn, Canberra....cũng không chấp nhận bất cứ cơ quan thông tin nào của Quốc Xã hay Nhật Hoàng, được tự do hoạt động như là các cơ quan truyền thông của họ. Nên nhớ là sau trận Nhật dội bom Trân Châu Cảng năm 1941, làm chết 2, 700 người, bị thương hàng ngàn người khác, thì tin tức tình báo cho biết là không quân Nhật có khả năng tấn công nước Mỹ, nên tại thành phố Nữu Ước, hàng chục ngàn cư dân Mỹ gốc Nhật đã bị tập trung, giải về các trại tạm cư ở Cali...phòng bịnh hơn trị bịnh.

Thời chiến tranh lạnh, các nước Cộng Sản Nga, Tàu, Đông Âu....không thể cho và lợi dụng sự tự do truyền thông để gởi các đại diện truyền thông nhà nước sang cộng sản, thu lượm tin tức và hoạt động công khai trong lòng địch. Trái lại, các nước Cộng Sản càng gắt gao và lưu ý hơn, họ sẵn sàng bắt bớ những ai hoạt động đưa tin sang các cơ quan truyền thông tây phương, không bao giờ cho phép đại diện các cơ quan truyền thông tay phương được hoạt động, ngay cả đài phát thanh Âu Châu Tự Do, cũng bị phá sóng tối đa.

Ngày nay, tại nước ngoài, đài truyền hình SBTN do nhóm Trúc Hồ, Nguyễn Nam Lộc, Nguyễn Nam Khánh.... và những thế lực bên trong đã thành công trong việc tạo được thế hòa hợp hòa giải truyền thông hai chiều, hai bên đều có lợi. Điều nầy đã xảy ra khá lâu, là một chuyện bất thường, cần phải lưu ý để tránh thiệt hại cho người quốc gia.

Đài truyền hình SBTN có công quyên góp tiền của người Việt hảo tâm nước ngoài, chuyển về nước làm từ thiện, hàng chục năm qua, con số tiền nầy không phải là nhỏ. Người làm công việc từ thiện có chính sách nầy là Trúc Giang, cha của Trúc Hồ.

Đài truyền hình SBTN được hoạt động công khai tại Việt Nam, dù nhiều người tưởng đài nầy chống cộng, lập trường quốc gia rõ ràng qua các chương trình nói chung chung, tố tham nhũng, dân oan, nhân quyền, ca tụng các nhà dân chủ, mà sau nầy họ không chủ trương lật đổ Cộng Sản qua biểu tình tại gia, lật đổ cộng sản làm xáo trộn xã hội...... đây là những điều đảng cùng nhà nước Việt Nam xem là nhàm chán, thế giới và người Việt nói quá nhiều, nói thêm nữa cũng không thiệt hại gì. Đài có đặc phái viên, đại diện là đứa con trai lớn của cố nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, có phỏng vấn trong nước, quay phim và gởi ra nước ngoài thoải mái...chả lẽ ngày nay đảng và nhà nước đã mở nới rộng, cho phép truyền thông tự do? Nhưng các bloggers như Điếu Cày, Người Buôn Gió...lại bị đàn áp thẳng tay, họ đâu có phản động bằng đài truyền hình SBTN?

Nhìn đa số các thương gia quay về làm ăn như vua chả giò Trịnh Vĩnh Bình, Úc Kiều Nguyễn Trung Trực, Nhật kiều Nguyễn An Trung, Mỹ kiều Trần Trường.... đã bị trấn lột sau thời gian làm ăn, phả bỏ của chạy lấy người. Nhưng bên cạnh đó, rất hiếm gương thành công, làm giàu tại Việt Nam, lâu dài như nữ thương gia Nancy Bùi, Katrina Hoàng Oanh...không phải tự nhiên thành công, trong một chế độ chủ trương trước sau như một: thà giết lầm hơn tha lầm. Như thế, vài gương thành công nêu trên phải có thể lệ và điều kiện áp dụng..

Đài truyền hình được một số người cho là chống cộng lớn nhất nước ngoài của người Việt tỵ nạn chủ trương SBTN, có được hoạt động công khai, thông tín viên, đại diện đài, đại diện từ thiện, tất là điều khác thường. Trong lúc những tờ báo điện, giấy nào chống cộng mạnh, hay những người nổi tiếng, kiên trì...chắc là không bao giờ được đảng, nhà nước cho về, trừ trường hợp đổi màu, đón gió, xin xỏ như Nguyễn Cao Kỳ và gia đình, Phạm Duy, Nguyễn Phương Hùng, hay về xin in sách và hội ngộ với Nguyễn Cao Kỳ như là nhà văn Đặng Văn Nhăm, nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc....

Dân biểu Mỹ là bà Loretta Sanchez hay vài nghị viện Âu Châu...cũng đã bị nhà nước Việt Nam từ chối nhập cảnh, dù đây là các nhà chính trị của các nước có bang giao với Hà Nội.

Nhưng đài truyền hình SBTN là đặc biệt và khác thường, cần phải lưu ý để không lầm lẫn nữa. Chế độ độc tài ở Việt Nam có thể cho là: họ đã có tự do truyền thông, bằng chứng là cho phép đài truyền hình phản động SBTN có đại diện tại Việt nam, như là những cam kết với các nước tây phương để nhận buôn bán, viện trợ. Từ đó họ đòi hỏi các nước tây phương làm như họ qua cái gương của đài truyền hình SBTN của nhóm Trúc Hồ, Trúc Giang, Nguyễn Nam Lộc, Nguyễn Nam Khánh...và những thế lực bên trong. Có thể là họ đưa đại diện bộ thông tin văn hóa, các thông tín viên, nhà báo quốc doanh sang hoạt động công khai ở các cộng đồng tỵ nạn, qua tiền đề từ đài truyền hình SBTN.

Đảng và nhà nước Cộng Sản Việt Nam không làm cái gì mà không có ý đồ, mục đích yêu cầu. Việc họ cho phép đài truyền hình SBTN và đại diện đài từ thiện Trúc Giang, là có lý do, và cũng như điều kiện hay sự quan hệ giữa hai bên. Vụ nhạc sĩ trẻ trong nước là Việt Khang bỗng bị bắt và người tiên phong kêu gọi cứu là Trúc Hồ, lời lẽ rất là tích cực, kèm theo vận động chữ ký, nhưng sự vụ nầy có nhiều nghi vấn. Trong khi bị giam cầm, nhà nước và công an rất cần những tin tức về Việt Khang, thì đài truyền hình SBTN là nơi đưa hình anh nhạc sĩ mặc áo thung của tổ chức phản động nước ngoài là Tuổi Trẻ Yêu nước. Đó có phải làm hại người ta không?. Công an chỉ cần thu thập những lời tự khai của các nhân sự, tổ chức trên đài truyền hình SBTN và vài tờ báo của Việt Tân, khỏi cần phải mất nhiều thời giờ, cũng đủ để kết án nặng qua tội danh cấu kết với các thế lực phản động nước ngoài, âm mưu lật đổ nhà nước.

Người Việt nước ngoài cần phải cẩn thận đài truyền hình SBTN, đây là cơ quan truyền thông hai mang, đáng nghi ngờ, phòng bịnh hơn trị bịnh. Những kinh nghiệm xương máu về sự gian manh của Cộng Sản, không cho phép nạn nhân CS tin tưởng một cách mù quáng đài truyền hình nầy.

Dân Chì
25.02.2012

"BẮT CÓC VÀ GIAM CẦM"

  "BẮT CÓC VÀ GIAM CẦM"


Trần Quang Diệu

                                 

"Tôi đã bị bắt trong vụ 11.11.1960 và ba năm bị giam cầm trong ngục tù của Diệm, Nhu và bị tra tấn dã man, nhất là bị sợi dây oan nghiệt treo từ trần nhà buông xuống".

 

Sau khi đảo chánh 11.11.1960 thất bại, tôi bị bọn mật vụ của Diệm, Nhu bắt giam tại một biệt thự gần phi trường Tân Sơn Nhứt. Đó là một ngôi nhà lầu, nằm trên con đường Võ Tánh – Lăng Cha Cả, bên cạnh hãng sản xuất xe Lambretta. Ngôi nhà này ở chính giữa, hai bên có hai dãy nhà lợp tôn. Khách qua đường nhìn vào sẽ thấy một khu vườn rộng, và một ngôi nhà cũng như hàng trăm ngôi nhà khác.

 

Nhưng có ai ngờ đó là một trại giam bí mật, thuộc quyền hành của bọn tay sai Diệm, Nhu.

 

Chiều ngày 15.11.1960, hồi 5 giờ, tôi đương đáp xe tắc-xi trên đường Trương Minh Giảng thì bị một chiếc xe díp chận lại. Năm sáu người nhảy xuống vây lấy chiếc tắc-xi tôi ngồi. Những họng súng lục chĩa vào trong xe. Một tên ra lịnh:

 

- Lôi nó xuống.

 

Cửa xe tắc-xi vừa mở, hai tên lôi tôi ra, còn tay thì bịt mắt tôi lại, đẩy lên xe díp. Bắt đầu vào đó, tôi không còn biết xe đã chạy qua những con đường nào. Khi xe dừng, chúng lôi tôi xuống dẫn vào một căn nhà.

 

Chúng mở còng, và lấy dây buộc chặt hai tay tôi ra sau lưng. Chúng vẫn chưa mở chiếc khăn bịt mắt tôi. Tôi không thể nào định được mình đang ở đâu. Đang phân vân, tôi bị những mũi giày đá vào người tới tấp. Hai tay bị trói, mắt bị bịt kín, tôi không thể nào đỡ được những cái đá trời giáng đó. Tôi biết rằng giờ hành hình đã đến. Sau chúng ngừng tay, mở chiếc khắn bịt mắt tôi ra.

 

Định thần một lúc lâu, tôi mới biết mình đang ở trong một căn phòng nhỏ, tại một ngôi biệt thự. Lúc đó, có hai tên mặt đen xì, dẫn tôi qua phòng khác. Căn phòng này rộng cỡ 10 thước vuông, trên tường có treo những ảnh vẽ sọ người, bên dưới có viết mấy chữ "chết người". Bên cạnh có những câu khẩu hiệu "không dung túng những kẻ ngoan cố". "Một chánh thể Cộng Hòa Nhân vị". "Một lãnh tụ Ngô Đình Diệm".

 

Khi chúng mang những thanh củi vào. Hai tên bảo tôi leo lên đứng trên bàn. Trên trần nhà một sợi dây thừng treo lơ lửng.

 

Tôi chần chờ không chịu leo lên trên bàn. Tức thì những thanh củi tới tấp đánh vào người tôi. Hai tay bị trói. Tôi chỉ chờ có một cách là giơ lưng ra chịu trận. Chiếc áo sơ mi trắng tôi mặc, hai bên vai đã bắt đầu đổ máu đỏ lòm.

 

Ở đây, chúng không dùng những ma trắc như các nơi khác. Chúng lấy những thanh củi chẻ làm tư, chụm lại, hãy còn nguyên mắt để đánh. (Những ai đã từng bị giam giữ ở Mật vụ đã rõ). Đánh một lúc dường như đã mỏi tay, chúng dừng lại và khiêng tôi đứng trên chiếc bàn. Hai tên này buộc sợi dây thòng từ trần nhà xuống, vào sợi dây trói hai cổ tay tôi. Xong rồi chúng lôi cái bàn ra. "Đó là cách tra tấn: "cho đi tàu bay!".

 

Bấy giờ người tôi bị xách ngược lên, và quay tít như chong chóng. Hai con mắt tôi bắt đầu nhìn thấy những đóm lửa, hơi thở mệt nhọc. Chừng 10 phút như thế, thì hai tên khác lại vào, trên tay lại cầm củi. Chúng bảo tôi đọc to những khẩu hiệu treo trên tường, mà tôi vừa kể trên. Tôi định cất tiếng la, thì những thanh củi bắt đầu bay vào đầu, ngực, lưng và chân tôi.

 

Lúc đầu, tôi còn cảm thấy đau, mỗi khi một thanh củi đập vào đầu. Nhưng 15 phút sau, thì tôi không biết gì nữa. Bởi vì chỗ nào cũng bị đánh, cũng rớm máu, dây thần kinh gần như không còn tiếp nhận những cảm giác đau đớn nữa.

 

Bọn mật vụ tay sai của Diệm, Nhu đánh người, không phải để khai thác như những nơi khác, mà đánh để trả thù (1). Lúc đó máu ở trong cổ họng tôi trào ra. Khi tôi ngất đi trên sợi dây oan nghiệt đó, chúng cởi dây thả xuống.

 

Lúc đó, tôi mê man không còn biết là chúng đã làm gì. Đến 2 giờ sáng hôm sau tôi tỉnh dậy, miệng và cổ họng khô lại. Tôi khát nước, muốn uống một ca nước lạnh, nhưng trong phòng tối om. Người tôi ê ẩm, tay chân không động đậy gì được.

 

Tôi dựa lưng vào tường thở dốc. Bên ngoài có tiếng chân người đến gần. Tiếng chìa khóa tra vào ổ khóa. Cánh cửa hé mở, ánh sáng từ ngoài lùa vào. Một người gác mang súng "cạc bin" và một tên Mật vụ đứng trước c ửa gọi:

 

- Ê, ra đây nhanh lên thằng kia!

 

Tôi không trả lời, giả vờ như mê, chúng gọi liên tiếp, lấy báng súng đập vào cửa ầm ầm.

 

Mặc kệ, tôi cứ giả vờ như ngủ say. Những tiếng chửi từ trong miệng tên Mật vụ tuôn ra (2). Hắn xông vào, rọi đèn bấm vào mặt tôi.

 

Tôi vẫn không mở mắt. Hắn bước lại gần đá vào người tôi mấy cái liền. Xong hắn nắm tôi lôi dậy. Tôi cố gắng lắm mới có thể đứng lên, hai bàn chân và khắp người đã sưng tím đen lại (3).

 

Từ phòng giam, tôi đi qua một khoảng sân rộng, rồi lên căn nhà dùng làm chỗ khai thác. Hai tên Mật vụ đi sau vừa chửi rất tục tằn, dẫn tôi vào phòng tra hỏi. Tên D. người chỉ huy trại giam tại nơi đây, tay cầm súng lục, nhìn tôi một cách hằn học:

 

- Tôi báo cho anh biết, ở đây một là khai thành thật, tôi xét hồ sơ rồi thả anh ra. Hai là nếu anh ngoan cố thì tôi thủ tiêu anh ngay, không có tòa án pháp luật xét xử gì cả (4). Anh liệu hồn đấy! Tên D. nói vừa dứt lời, thì một tên mật vụ khác cầm một thanh củi dài đánh vào người tôi liên tiếp.

 

Mặc cho hắn nói gì thì nói, miệng tôi khô lại, tôi ráng hết sức để nói với tên D.

 

- Tôi khát nước quá, xin ông cho tôi ly nước.

 

Hắn mỉm cười một cách nham hiểm:

 

- À uống nước hả, tí nữa tao cho uống!

 

Nói xong, hắn ra lệnh cho một tên khác đưa tôi sang phòng bên cạnh. Giữa cái phòng này có kê một cái bàn lớn, hai bên là hai chiếc ghế dài. Trong góc phòng, có để một bình điện và vô số củi khúc. Hắn dẫn tôi sang đấy, trao cho tôi một tấm giấy trắng và một cây bút nguyên tử, hắn bảo tôi làm bản tự khai.

 

 

                                                                              "TỔNG THỐNG ĂN MẮM RUỐC"

 

Trong khi tôi ngồi làm bản tự khai, thì dưới sân có tiếng xe hơi đỗ, tiếng người xôn xao. Những tiếng chửi giọng Huế, tiếng giày đá vào người và tiếng kêu rên.

 

Một lúc sau, năm sáu tên Mật vụ dẫn một thanh niên trạc 20 tuổi, khoẻ mạnh. Chúng đưa vào phòng điều tra có treo sọ người (5). Chừng năm phút sau, thì có tiếng những thanh củi nện vào người, tiếng kêu thất thanh, tiếng chửi rủa. Tôi không thể nào làm xong được tờ khai. Những tiếng kêu này và hình ảnh tra tấn dã man kia ám ảnh làm tim tôi ghê rợn.

 

Có tiếng hỏi:

 

- Tại sao mày lại nói thế?

 

- Thưa ông, tôi có nói gì đâu.

 

-Sáng ngày 11.11 mày nói gì? Có phải mày nói "Tổng Thống ăn mắm ruốc" không? (6)

 

Tiếng người thanh niên van nài:

 

- Dạ có, tôi có nói!

 

- Tại sao mày nói vậy? Đ.m. tao đánh cho mày biết.

 

Thế là những thanh củi tới tấp đập vào người kêu đôm đốp, tiếng rên xiết kêu la lại nổi lên.

 

Bỗng có tiếng hét to:

 

- Tôi nói "Tổng Thống ăn mắm ruốc" mà sao các ông lại đánh tôi.

 

Lính nhảy dù vây dinh Độc lập, không ai đi chợ được, thì phải ăn mắm ruốc chứ sao. Bộ ăn mắm ruốc xấu xa gì mà các ông lại đánh tôi!

 

Mặc cho kêu gào, những thanh củi cứ vẫn tiếp tục đập. Lúc đó mặc dù tôi đau đớn ê chề cả thể xác lẫn tinh thần, nhưng khi nghe tiếng người thanh niên nọ thốt ra những lời trên, tôi cũng bật cười.

 

Cuộc tra khảo tiếp tục, Người thanh niên mỗi lúc càng hét to. Tiếng kêu thét lên rồi tắt ngang. Từ đó về sau, tôi chỉ còn nghe tiếng rên, và những tiếng thanh củi đập vào thân thể anh ta. Dường như thanh niên đó đã kiệt sức.

 

Bấy giờ tên D. từ phòng điều tra đi sang. Hắn đến đứng sau lưng tôi, hắn nhìn tập giấy trắng để trên bàn, trong lúc tôi vẫn chống hai tay lên mặt bàn. Hắn cầm tập giấy lên giở qua giở lại rồi vứt xuống. Sau đó là những báng súng từ tay hắn đập túi bụi vào ót, và tai tôi. Hắn hét to:

 

- Thằng này cứng đầu không chịu khai. Tr. Đâu cho nó uống nước đi. Mới nghe tôi mừng thầm, vì mình đang khát nước mà được uống thì còn gì bằng. Hai tên Mật vụ hồng hộc chạy sang. Một tên mang một chiếc ghế dài. Một tên khác từ dưới nhà xách lên một thùng nước.

 

Tên D. nắm tai tôi xách lên, và ra hiệu cho tên kia đi theo tôi. Tôi bước vào căn phòng mà bóng tử thần lúc nào cũng quanh quẩn trong óc tôi, một cảnh đầu tiên đập vào mắt tôi, người thanh niên lúc nãy kêu la bây giờ đã nằm bất tỉnh trong một góc phòng.

 

Trong phòng chiếc bàn vuông đã được đẩy vào một góc và thay vào đó chiếc ghế dài đã được kê sẵn, bên cạnh là một thùng nước đầy bọt xà bông, tên D. ra lệnh:

 

- Leo lên, ngửa ra, lúc nãy nói uống nước hả, bây giờ tha hồ cho mày uống. Nói đoạn hắn bắt tôi uống nước xà bông đến phình bụng, rồi cho người đứng trên bụng tôi mà đạp mạnh."

 

(Trích tài liệu "Chín năm máu lửa dưới chế độ gia đình trị Ngô Đình Diệm". Nguyệt Đam và Thần Phong thuật theo lời ông N.C.D, xb tại Sài gòn năm 1964, từ trang 208 đến trang 213).

 

Trần Quang Diệu

 

Ghi chú của Trần Quang Diệu:

 

1) Ngày nay, có những người cũng đã từng đe dọa: "chưa đến ngày trị tội" khi họ đang chửi rủa bất kỳ Giáo hội hay Giáo phái nào của Phật Giáo Việt Nam.

                                     

2) Làm sao có thể loại trừ rằng không có những tên mật vụ như vậy ngày nay đang ở đâu đó, luôn tiếp tục quen thói hung dữ là sẵn sàng mắng chửi lại bất cứ ai mỗi khi người ta dám đụng đến chế độ Ngô Đình Diệm "anh minh" mà một thời họ là những tay sai !?

 

3) Ôi! Đó là "Thiên Chúa lòng lành vô cùng" của một lãnh tụ, gọi là "đại anh hùng dân tộc" ở vị trí từng là ông thầy tu Ngô Đình Diệm, mà, ngay lúc làm tổng thống, ông đang có một bàn thờ Chúa trong dinh Độc Lập để hằng ngày ông cầu nguyện?

 

4) Chế độ Đệ nhất Cộng hòa "công bằng bác ái", luật pháp nghiêm hành, văn minh tiến bộ là như vậy đó hay sao? Bảo đảm, nếu không được phép dung dưỡng bởi anh em ông Diệm, ông Nhu thì đố ai dám phát ngôn cẩu thả, bất cần luật pháp đến như vậy.

 

5) Nhằm để khủng bố tinh thần chứ không là gì khác? Thật ngao ngán cho những đứa con nhất thiết đều phải do Chúa sinh ra!

 

6) Cái đó – nói "Tổng thống ăn mắm ruốc" - mà còn bị bắt cóc tra tấn, thì so với những "âm mưu lật đổ vua Tự Đức", quấy rối xã hội, xúi giục giặc ngoại bang đến cướp quê hương xứ sở vào hồi nhà Nguyễn thì làm sao có thể dung thứ? Vậy mà, có một số thì được hãng sản xuất thánh (Vatican) phong cho họ là thành "thánh" ráo trọi. Nhưng, đối với tổ quốc Việt Nam, thì nhất định họ là những tội đồ dân tộc, là thành phần phản dân hại nước. Còn đối với tòa thánh Vatican La mã, thì hễ ai trở thành thần dân của họ, "làm theo đức vâng lời", nghĩa là phục tùng tuyệt đối mệnh lệnh của họ, đem lại sự lợi ích cho họ mà bị lâm nạn thì họ xúc tiến thủ tục, gạn lọc công trạng, thành quả để rồi phong lên hàng thánh. Như thế, thật là nhục nhã cho những ai khi biết rằng mình là con cháu của vua các Hùng.