27 May 2015

Thói quen xấu tiêm nhiễm vào huyết quản rồi

Văn Quang - Viết từ Sài Gòn ngày 25.05.2015

Thói quen xấu tiêm nhiễm vào huyết quản rồi

Trong tuần này, hầu hết các báo ở VN và các trang mạng trên khắp các diễn đàn trong và ngoài nước đều sôi sục vì những bản tin mới nhất về chuyện du học sinh VN tại Nhật ăn cắp vặt và ăn cắp có tổ chức.

Nỗi nhục không phải chỉ có người VN ở trong nước gánh chịu mà tất cả người VN có mặt trên khắp hành tinh đều cảm thấy nhục khi "phải là người Việt Nam". Trước hết tôi thấy cần phải xác định ngay rằng, từ trước những năm 1975, du học sinh VN rất nhiều, nhưng chưa hề mang tai tiếng nào về những vụ ăn cắp như thế này. Họ chỉ mang vẻ vang về cho đất nước.

Hồi đó (trước 1975) hầu hết các học sinh VN được đi du học không cần phải là con ông cháu cha, bất kỳ gia đình nào đủ sức lo cho con cái đi du học đều được chính phủ cho phép dễ dàng.

Các du học sinh hầu hết theo học ở Pháp hoặc ở Anh, Mỹ. Cần phân biệt rõ "du học sinh" và tu "nghiệp sinh" vì, "tu nghiệp sinh" là một dạng học nghề, sang Nhật để làm thuê còn "du học sinh" là những người đi học văn hóa tại các trường Trung Học, Đại Học ở nước ngoài.

Hầu như chưa có học sinh nào du học ở Nhật bởi thời ký đó Nhật Bản cũng chẳng hơn gì VN về mọi phương diện từ văn hóa đến xã hội, nếu không muốn nói là họ còn kém VN nhiều mặt bởi họ đang phải gắn bó vết thương chiến tranh tàn phá sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh.

Nhưng từ đó đến nay, nước Nhật tiến bộ nhanh chóng. Trong khi người Việt vẫn nghèo đói tang thương. Từ cái nghèo đói đó nẩy sinh biết bao nhiêu tệ nạn. Nhất là nạn tham nhũng phá hoại tất cả từ văn hóa đến đạo đức. Nào là nạn buôn bán người, nạn trộm cướp, ma túy, mại dâm… kể làm sao hết. Chính vì lẽ đó nên số người xuất ngoại lao động ngày càng nhiều.

Người VN bắt đầu giao thương với Nhật và du học sinh cũng được gửi sang Nhật học hành. Và sự thật là con cái đại gia thực thụ thì ít, con cái thuộc loại con ông cháu cha -COCC- thì nhiều. Người dân lo kiếm ăn đã khó, lấy tiền đâu cho con đi du học. Chỉ có những người lao động muốn đổi đời chạy chọt đóng tiền cho các doanh nghiệp quốc doanh như Sovilaco hoặc Suleco được độc quyền xuất khấu lao động sang Nhật để học nghề kiếm tiền, gọi là "tu nghiệp sinh".

Gần như tất cả các "tu nghiệp sinh" tại Nhật phải làm việc khoảng 20 tiếng/ngày và 7 ngày/tuần nhưng chỉ được trả "trợ cấp" 70,000 Yen/tháng (khoản thu nhập chỉ bằng một nửa mức thu nhập tối thiểu).

Một blogger người Việt có nickname là "Minh T", sống tại Nhật khẳng định: "Với 25,000 Yen còn lại, phải dành 10,000 Yen trả tiền nhà/tháng, 15,000 Yen để trả các loại chi phí ăn, uống, điện, nước, ga... Gái không làm điếm, trai không ăn cắp cho bọn hàng không Việt Nam mới là chuyện lạ".

Tôi không nói tất cả các du học sinh VN thời nay đều như thế cả, chỉ có một số cô cậu ăn chơi lạc đường vào sa ngã. Tiếc thay con số đó lại không hề ít. Và không chỉ du học sinh mà số người ăn cắp thuộc nhiều thành phần xã hội khác nhau, kể cả người lao động và những người được gọi là có học.

Xin dẫn chứng:

Mỗi ngày xảy ra 8 vụ người VN ăn cắp ở Nhật
Báo Một Thế Giới dẫn nguồn từ Viet-jo.com cho biết, tháng trước, Cơ Quan Cảnh Sát Nhật Bản đã công bố tình hình bắt giữ tội phạm nước ngoài trong năm 2014 tại nước này với tổng cộng có 15,215 trường hợp. Trong số đó các vụ liên quan đến người Việt Nam lên đến 2,488 vụ, tăng 61,6% so với năm 2013, tính ra trung bình mỗi ngày xảy ra 8 vụ trộm cắp dính đến người Việt Nam.
Biển cảnh báo người Việt ăn cắp tại siêu thị ở Nhật bằng tiếng Việt không hiếm.

Cụ thể, có tổng số người nước ngoài tại Nhật bị bắt là 10,689 người, tăng 8,1% so với năm 2013. Đặc biệt, trong số người phạm tội có đến 1,548 người Việt Nam, chiếm 16,4% tổng số các trường hợp các vụ do người nước ngoài vi phạm luật pháp bị cơ quan an ninh Nhật bắt giữ, chỉ xếp sau Trung Quốc.

Điều đáng buồn là trong số các vụ án hình sự, thì người Việt đứng đầu về cả số vụ lẫn số người các tội cướp giật, ăn cắp. Số người Việt ăn cắp bị bắt giữ là 1,745 trong tổng số 6,716 người nước ngoài bị bắt. Trong các trường hợp ăn cắp do người Việt Nam thực hiện thì số vụ ăn cắp ở cửa hàng, siêu thị đặc biệt cao với 1,437 vụ, người sang Nhật học nghề chiếm 12.9%. với phần lớn tỉ lệ là du học sinh với 54.2%, tăng 1,8 lần!

Những bản thông báo còn hơn chửi người Việt
Bạn đã thấy tình trạng người Việt Nam ăn cắp đồ tại Nhật lại có xu hướng gia tăng. Điều đó khiến cho hình ảnh người Việt càng thêm xấu xí trong mắt các bạn nước ngoài.

Cách đây không lâu, 6 người Việt (gồm cả nam và nữ) ăn cắp quần áo hiệu Uniqlo bị cơ quan chức năng Nhật Bản bắt giữ. Nhóm người này đã hơn 100 lần thực hiện hành vi trộm đồ. Khi điều tra về tài khoản của một phụ nữ trong nhóm, cảnh sát phát hiện nhiều giao dịch hàng hóa trị giá tới 10 triệu Yen (tương đương 1,9 tỷ đồng).
Cảnh sát thu giữ số quần áo mà nhóm người Việt đã lấy cắp tại cửa hàng Uniqlo.
Họ trộm đồ từ nhiều cửa hàng ở những khu vực khác nhau và bán hàng thông qua các trang mạng xã hội. Hẳn bạn chưa quên mới đây hình ảnh những phi công và tiếp viên Hàng Không VN buôn lậu đồ ăn cắp được nêu tên trên báo. Hôm 17 tháng 12, cảnh sát Nhật đã bắt quả tang Ðặng Xuân Hợp, phi công của Vietnam Airlines đang vận chuyển hàng gian về Việt Nam.
Phi công Ðặng Xuân Hợp tự cởi áo, che mặt tránh ống kính của báo chí.
Cảnh sát xác định có khoảng 50 nhân viên (bao gồm cả phi công lẫn tiếp viên hàng không) của Vietnam Airlines dính líu đến tổ chức trộm cắp và vận chuyển hàng gian đang bị điều tra. 
Khi bị bắt phi công Ðặng Xuân Hợp xấu hổ quá tự cởi áo, che mặt tránh ống kính của báo giới Nhật khi bị bắt giữ tại phi trường Fukuoka. 

Theo tin mới nhất, ngày 18-5 vừa qua tại phiên tòa xét xử 2 nhân viên của hãng hàng không Vietnam Airlines mang 6 kg vàng nhưng không khai báo, công tố viên Hàn Quốc đã đưa ra bản án 24 tháng tù giam đối với cơ trưởng Nguyễn Văn Dũng và 12 tháng tù giam đối với tiếp viên Nguyễn Tuấn Phong. 

Ngay cả một cô dẫn chương trình của Đài Truyền Hình VN, con một ông Tổng giám đốc thừa mứa tiền bạc cũng mắc chứng ăn cắp vặt. 

Một lần ở Thụy Điển và một lần ở Anh, Đại sứ quán VN phải can thiệp và cả hai lần bố cô phải gửi sang tờ giấy của bác sỹ chứng nhận bệnh tâm thần đưa ra sử dụng cô mới được thả.

Câu chuyện từ năm 2001 và 2006, chuyện đã xa, giờ này chắc cô đã có tuổi và yên ấm bên chồng con nên tôi không muốn ghi rõ tên họ.
 

Thế nên ở nhiều nhà hàng cửa hiệu của Nhật đã dán những thông báo vô cùng nhục nhã đối với người Việt.

Bạn Kim Mạnh Hiệp (26 tuổi) – cựu du học sinh Đại học Tokyo Agriculture and Technology University, Nhật Bản cho biết:
"Hiện tại, mình được biết có một vài công ty đã… cấm tuyển người Việt Nam. Một số video được các công ty này công bố có ghi lại hình ảnh người Việt ăn trộm sản phẩm… Rồi có cả những biển tiếng Việt "cấm ăn vụng, uống vụng đồ trong nhà bếp" để cảnh báo những bạn trẻ Việt làm trong nhà hàng Nhật nữa.
Bức ảnh cảnh báo không được lấy ô và giầy của người khác.
Chưa kể, gần đây có một số vụ ăn cắp đồ trong siêu thị, hay bắt trộm dê của người dân, mà đài truyền hình NHK (Nhật) đã có phóng sự riêng dài hơn 20 phút…" Ngoài ra còn tấm bảng để ngay cửa ghi rõ tiếng Việt: "Tuyệt đối không được lấy ô và giầy của người khác để dùng". Và chắc còn nhiều nữa mà chúng ta chưa biết hết. Nếu bạn có dịp đi du lịch sang Nhật chắc bạn không dám nhận mình là người Việt Nam. Còn rất nhiều chuyện đáng nói về vấn đề này, nhưng ở đây tôi chỉ chú trọng đến vấn đề chung mới đây của cả các du học sinh và tu nghiệp sinh.

Bản thông báo mới của văn phòng trường Nhật ngữ viện nghiên cứu Tokyo
Ngày vừa qua, một bản thông báo mang tên "Thông báo đến học sinh Việt Nam về việc ăn cắp vặt" được chia sẻ trên nhiều diễn đàn giới trẻ. Theo thông báo này, văn phòng trường Nhật ngữ viện nghiên cứu Tokyo, Nhật Bản cho biết:
"Hiện nay nhiều sinh viên Việt Nam đang sinh sống tại Nhật bị cảnh sát bắt vì tội ăn cắp, bỏ trốn và không đến trường làm nhà trường rất lo lắng.

Ở các siêu thị hoặc cửa hàng thuốc tây ở Nhật đều có camera giám sát hoặc nhân viên giám sát ăn cắp vặt.

Gần đây, được biết có một tổ chức tội phạm liên lạc với những sinh viên đang du học tại Nhật như thế này: "Hãy đi đến tiệm… có bán những sản phẩm… ăn cắp rồi đưa cho người Nhật. Nếu làm vậy nợ nần ở Nhật sẽ được trả bớt".

Khi bị bắt vì tội ăn cắp sẽ bị đưa vào tù và đưa trả về Việt Nam (cưỡng chế về nước). Trên thực tế những trường hợp như thế này đang gia tăng.

Mặt khác, nếu bỏ trốn không đến trường thì:

Xem như trở thành cư trú bất hợp pháp. Sinh viên nào không đến trường, nhà trường xem như sinh viên đó nghỉ học và thông báo đến Cục quản lý xuất nhập cảnh Tokyo. Nếu như thế cho dù còn thời hạn cư trú nhưng vẫn bị cảnh sát bắt.

Về hành vi ăn cắp, nếu không đến trường, bỏ trốn thì khi đang làm việc bị cảnh sát bắt được sẽ bị trả về nước và vĩnh viễn không được đến Nhật vì hành vi của bạn đã được lưu lại.

Nhà trường hiểu rằng các bạn sinh viên có nhiều vất vả nhưng các sinh viên đến đây với mục đích là du học sinh thì hãy cố gắng học tập tốt. Khi các bạn giỏi tiếng Nhật thì các bạn sẽ tìm được công việc tốt cho mình và chắc chắn sẽ có nhiều điều tốt đến với mình.

Khi các bạn có khó khăn gì, muốn trao đổi điều gì các sinh viên hãy đến văn phòng. Các sinh viên hãy cố gắng lên!".

Nguyên nhân vì đâu?
Bạn Nguyễn Hương Giang (24 tuổi, SV năm cuối trường Asia University, Nhật Bản) cho biết:
"Theo mình, có 2 nguyên nhân dẫn đến việc trộm cắp này. Thứ nhất, trước khi trở thành như vậy, các bạn ấy cũng chỉ là du học sinh bình thường nhưng do hoàn cảnh "cơm áo gạo tiền" nên "nhẹ dạ cả tin" vào những lời "rót tiền như rót mật" và bị các tổ chức tội phạm liên hệ, dụ dỗ thực hiện hành vi trộm cắp".

Từ những câu chuyện, hình ảnh "tố" thói "trộm cắp vặt" của du học sinh Việt tại Nhật, Nguyễn Phượng - một bạn trẻ Việt 26 tuổi đang làm việc tại Nhật nói:
"Theo mình, nguyên nhân sâu xa bắt nguồn từ chính cách giáo dục của người Việt, từ cách hành xử đời thường".

Ngay cả các bạn trẻ cũng đã nhận thức được nguyên nhân xảy ra những hành động xấu xa đó chính là do tuổi trẻ  đã có một thời gian quen sống trong một xã hội suy đồi đạo đức, con người đối với nhau chỉ là quyền lợi cá nhân. Trước mắt là những kẻ không cần làm gì vẫn có tiền rừng bạc bể khiến thiên hạ ngây ngất. Cứ thò tay ra là có tiền, đó là tiền hối lộ. Các cậu dù là du học sinh, dù là con ông cháu cha, dù là dân lao động đi học nghề không ăn hối lộ được thì ăn cắp. Thói quen xấu ấy tiêm nhiễm vào huyết quản rồi, đã thành cái bệnh nan y. Khi nào các cha anh sống lương thiện cho các con cháu noi theo mới có lớp người tử tế được.

Còn trong tình trạng suy đồi này thì vẫn sẽ còn những tờ thông báo dán trên tường các cửa hàng cửa hiệu trên đất Nhật. Chưa biết chừng nay mai còn có những tờ thông báo như thế này ở các nước khác nữa. Cẩn thận đề phòng đi là vừa./-

Văn Quang

22 May 2015

Thói hư tật xấu của người mình!

Thói hư tật xấu của người mình!

Trần Văn Giang

Lời giới thiệu:

Không hiểu cuốn sách "Người Trung Quốc xấu xí" của Bá Dương ("Bo Yang") được xuất bản cách đây gần hai chục năm có liên quan gì đến sự phát triển mạnh mẽ của Trung Quốc hôm nay hay không?

[Nên biết bên Mỹ có cuốn sách nổi tiếng tương tự là "The ugly American" của WILLIAM J. LEDERER AND EUGENE BURDICK xuất bản năm 1958 đã trở thành cuốn sách bán chạy nhất thời đó].

Tuy nhiên, hình như có nhiều liên quan giữa sự can đảm nhìn nhận ra những yếu kém của chính mình và sức vươn lên mạnh mẽ cho dân tộc (!)

Ở hoàn cảnh Việt Nam, đã gần một thế kỷ rồi, thế hệ cha ông của chúng ta cũng đã có rất nhiều người dám vạch thẳng những tính xấu, những hủ tục của người Việt mình để biết mà sửa đổi (!) Nhưng mà không thấy có ai chịu nghe???  Để xét cái kết quả ("không khá") này, cứ việc nhìn vào hiện tình dân tộc Việt ở trong nước lẫn ở hải ngọai; cứ nhìn vào chính bản thân mình, đồng bào và các tổ chức / hội đoàn chung quanh mình chứ chẳng cần tìm đâu xa!  Đến lúc này, thế hệ chúng ta, giữa những thay đổi lớn lao đang và vừa mới xẩy đến cho dân tộc chúng ta, giữa khát vọng phục hưng dân tộc… đây là một cơ hội thật tốt để cùng nhau đọc lại những nhận định mà các vị tiền bối đã viết về nhũng cái xấu xa của người mình và rồi tự đặt câu hỏi cho bản thân và cộng đồng của mình phải làm gì để cho dân tộc mình khá hơn?

"Có lẽ ta đâu mãi thế này …"
(Nguyễn Công Trứ - "Quân tử cố cùng")

TVG

1- Chơi bời lãng phí
Trần Chánh Chiếu
("Lục tỉnh tân văn," năm 1907)
Theo tục ông bà để lại, hễ mãn một năm thì ăn Tết một lần ấy cũng là phải. Sao tôi thấy hễ tới ngày ấy, ai ai cũng đốt pháo, dựng nêu, treo bùa tứ tung ngũ hoành, đánh đáo đánh quần tới bảy bữa, rồi nào me, nào lú (1), bài cào, xóc đĩa, tổ tôm đủ thứ. Thậm chí có ông ăn Tết rồi thì bán nhà bán cửa, nợ réo trước nợ réo sau.  Đã "bần nhược" (2) lại "đãi đọa" (3) vậy thì biết chừng nào mà giàu có như người ta đặng?

(1) Theo Huỳnh Tịnh Của, "Đánh me" là "gây ăn thua trong cuộc chơi tiền," còn "Lú" là "cuộc chơi con nít dùng tiền mà đánh đố."
(2) Nghèo đói.
(3) Biếng nhác.

2- Ở đâu cũng thấy học đòi làm dáng
("Hiếu thượng," Tri tân, năm 1943)
Cái hiếu thượng (1) của số đông người mình đã lộ rõ ở từ ngôn ngữ đến cử chỉ, từ hành vi trong gia đình đến động tác ngoài xã hội. Người ta chơi câu đối?  Phần đông không phải vì thích chữ tốt yêu văn hay nhưng vì muốn sĩ diện ở mấy cái lạc khoản (2) có chức tước.  Người ta in danh thiếp?  Không phải vì cốt thông tính danh tỏ địa chỉ, song hình như chỉ cốt trưng những chức sắc tước trật và phẩm hàm.  Người ta đăng cáo phó?  Có lẽ ít vì cốt để báo tang, nhưng phần nhiều cốt để lợi dụng cái chết của ông bà cha mẹ mà quảng cáo cái danh phận của con cháu.

Cái bệnh hiếu thượng ấy truyền nhiễm đến cả nữ giới làm cho lắm người cũng mắc lây.  Một dạo ở xã hội ta nổi lên cái phong trào "phi cao đẳng bất thành phu phụ." Vì thế trong cuộc hôn nhân đã xảy ra lắm chuyện buồn cười.  Hoặc mượn văn bằng của người khác để đưa nhà gái sát hạch lúc cầu hôn, hoặc giả làm nhà tòng sự (3) suốt mấy tháng để nhà gái nếu có dò la vẫn thấy sớm vác ô đi tối vác về...

(1) Thích hướng lên trên, tức hiếu danh, bon chen...
(2) Tự đề tên họ chức tước ở một góc câu đối.
(3) Làm công chức.

3- Học vấn một đằng, công nghệ một nẻo
Phan Kế Bính
("Việt Nam phong tục," năm 1915)
Tính người mình không biết quý trọng công nghệ, người làm nghề tựa hồ như bất đắc dĩ không học được làm quan chẳng lẽ ngồi khoanh tay chịu chết mới phải xoay ra làm nghề thôi. Mà làm nghề thì không cần gì tinh xảo chỉ cốt bán rẻ tiền được nhiều người mua là hơn.  Công nghệ suy nhược lại còn là vì người có học thức không chịu làm, người chịu làm thì lại là người không có học thức, chẳng qua chỉ theo lối cũ nghìn năm xưa chớ không nghĩ được cách thức nào mới.

Ít năm nay, có trường bách công dạy dỗ, có lắm lời tân học cổ động thì cũng đã tỉnh ngộ ra ít nhiều và cũng đã có người sinh được nghề khéo, học được nghề mới tranh được lợi buôn bán.  Song cái tính khinh đường công nghệ thì vẫn chưa bỏ được. Có người nhờ công nghệ mà nên giàu có song vẫn tự coi mình là đê tiện, phải mượn cái phẩm ông Hàn ông Bá mới là vẻ vang.

4- Khéo tay mà trí không khôn
Phạm Quỳnh
("Pháp du hành trình nhật ký," năm 1922)
Xét ra ở nước Nam ta mới có các nghề mỹ nghệ là thịnh, phàm nghề khéo toàn là các nghề trang sức cả, còn mỹ thuật thì chưa có gì sánh được với các nước, nhưng ngay trong mỹ nghệ cũng chưa có kỷ luật, chưa có thể thống gì, chưa phân rõ các kiểu cách, các thời đại, các lề lối, các phương pháp, thợ thuyền phần nhiều là những người vô học, phi quen tay phóng lại lối cũ, thời bắt chước chép của người ngoài, thành ra tay có khéo mà trí không khôn, không biết biến báo mà vẫn giữ được tinh thần cốt cách cũ , tồn cổ mà khéo ứng dụng về đường sinh hoạt mời, nói tóm lại là không có trí sáng khởi (1) khôn ngoan, gây ra trong mỗi nghề một cái thể thức trang nghiêm mà đặc biệt.  Cho nên các nhà nghề ta không thể bằng cả ở cái tay khéo được, cũng phải tập cho có cái trí khôn nữa.

Nay muốn gây lấy cái trí khôn ngoan trong mỹ nghệ, khiến cho có tinh thần có thể thức, thời không gì bằng lập ra một nhà bảo tàng mỹ nghệ, sưu tập lấy những đồ đẹp trong nước, chia ra từng thời đại, bày cho có thống hệ (2), để cho những nhà nghề đến đấy mà xem, mà học cho biết nghề mình duyên cách (3) thế nào, thể cách làm sao, rồi hoặc trông đấy mà giữ lấy cái cốt cách tinh thần cũ, hoặc nhân đấy mà biển đổi dần.

(1) Bắt đầu dựng lên, ngày nay hay viết là "sáng tạo."
(2) Quan hệ của những cái liên tiếp nhau. Cũng nghĩa như hệ thống.
(3) Duyên (có khi đọc diên) ở đây là thủ cựu, cách là đổi mới. "Duyên cách": Tình hình trong một khu vực nào đó cái cũ thế nào, cái mới ra sao.

5- Thiếu tinh thần cầu học
Nguyễn Văn Tố
(theo Lê Thanh, "Cuộc phỏng vấn các nhà văn," năm 1943)
Phải nhận rằng người mình không ham học mấy.  Thí dụ như người đỗ bằng tốt nghiệp, có công ăn việc làm thì thôi, không chịu học thêm.  Tôi cho thế là nhầm lắm. Người ta dạy cho bấy nhiêu là để cho mình tạm đủ sức mà học lấy, khi ở trường ra mắt là chỗ khởi hành, mình lại tưởng đến nơi rồi.  Nếu tôi được phép, tôi sẽ khuyên anh em thanh niên học rõ nhiều, vừa đọc văn Tây, vừa học lại tiếng ta, vì phần đông người ta mà viết văn ta còn sai nhiều.

6- Mô phỏng đã thành thói quen
Hoa Bằng
("Phải có cái gì để làm đặc tính của người mình chứ." Tri tân, năm 1941)
Hết thảy mọi phương diện, chẳng hạn, từ văn học tới nghệ thuật - chúng ta đều ăn của người, nhưng đã biết hóa để làm của riêng của mình chưa?

Bình tĩnh mà xét, từ hình thức đến tinh thần ta nay cũng có một đôi phần tiến.  Nhưng cái óc mô phỏng hay còn rõ sờ sờ trung hết thảy mọi mặt.

"Chúng ta phải làm con cháu của cổ nhân chứ không nên làm nô lệ của cổ nhân."  Đối với cổ nhân ta nay còn phải dè dặt thay, huống chi đối với gió bốn phương, há lại nên bạ chiều nào che chiều ấy?!

7- Kiếp người bấp bênh văn chương sầu não
Nguyễn Văn Huyên
("Văn minh Việt Nam," năm 1944)
Sự đơn điệu tẻ nhạt của cảnh sắc thiên nhiên, tính chất chu kỳ của thiên tai, sự cách biệt của các nhóm người, sự phân chia nam nữ, nền giáo dục khắc nghiệt và khô khan khiển người Việt thiên về u buồn và sầu não.

Cá nhân bị giam hãm một cách chặt chẽ và giả tạo trong những khuôn khổ cứng ngắc như gia đình và làng mạc đến nỗi họ không quan niệm nổi họ có khả năng hành động một mình.  Vì thế khi môi trường chung quanh không còn giữ họ lại bằng những mối ràng buộc thông thường mà lễ giáo quy định, người ta dễ đắm mình vào những bài hát buồn bã u sầu, khiến mọi nỗ lực trí tuệ tiêu tán.

Nền văn hóa vốn thấm nhuần lòng từ bi Phật giáo cũng góp thêm phần dồn nén các dục vọng cá nhân. Rồi quan niệm siêu hình của đạo Lão khiển nhiều tác giả thiên về một cái nhìn bi quan sâu sắc và một sự mỉa mai chua chát.  Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm, Thu dạ lữ hoài ngâm cũng như các tác phẩm của Trần Tế Xương, Nguyễn Khắc Hiếu…  chỉ là những tiếng vọng của nỗi đau nhân loại. Trong nhiều tác phẩm khác, ta luôn luôn thấy cùng những đề tài giống nhau về nỗi đau khổ, ước mong và hối tiếc, phản ảnh tất cả sự dồn nén tinh thần của cá nhân, hoặc gần như vậy, sự sợ hãi muôn thuở của một kiếp người bấp bênh, một cuộc sống chật hẹp.

8- Một nền nghệ thuật thiếu tư tưởng
Hoài Thanh
("Có một nền văn hóa Việt Nam," năm 1946)
Trong lịch sử ta biết bao thế hệ nhà nho kế tiếp nhau mài miệt trong sách vở của thánh hiền mà nào có sáng tác được gì đâu.

Ta không có một nền quốc học nếu quốc học là học thuật riêng của nước.  Trải qua mấy ngàn năm lịch sử ta cơ hồ không có sáng tác gì về học thuật.  Ấy cũng vì ta kém óc trừu tượng khái quát, điều kiện căn bản để phát minh về tư tưởng.

Người phương Tây rất ngạc nhiên thấy ta hôm qua chỉ biết có "Tứ thư Ngũ kinh" mà hôm nay bỗng tin theo những thuyết rất mới mẻ, rất cấp tiến của khoa học hiện kim. Họ không biết rằng học thuật tư tưởng không phải là những căn bản tinh thần của dân tộc ta.  Tư tưởng nào có lợi cho đời sống của dân tộc thì ta theo, nhưng một khi tình thế đổi thay, tư tưởng ấy trở nên có hại cho đời sống chung, ta sẽ trút bỏ dễ dàng không tiếc hối.

9- Đằng sau thói quen đẽo gọt là sự nhu nhược
Phan Kế Bính
("Việt Nam phong tục," năm 1915)
Văn chương gọt từng tiếng khác nào như người gọt củ thủy tiên, cái lá này bắt cho quăn, cài giò kia hãm cho thấp trông thì hoa nở đều nhau đẹp đẽ nhưng động vào đã gãy, để chưa mấy ngày đã úa.  Cốt lấy cái khéo nhỏ nhặt làm mất đi cái khí mạnh, gọi là "nhu nhược chi văn chương!"

10- Xu thế trang sức quá nặng
Đào Duy Anh
("Việt Nam văn hóa sử cương," năm 1938)
Nghệ thuật Việt Nam thường bị bó buộc trong lề lối cổ. Phải tôn trọng những phép tắc xưa, cho nên nhà nghệ tài giỏi mấy cũng chỉ phỏng lại những hình thức có sẵn cho khéo, chứ không được theo tự ý mà sáng kiến những cách thức mới.

Nhà nghệ thuật Việt Nam không phải là người biểu diễn ý chí tâm tình của mình, cũng không phải người quan sát và biểu hiện tự nhiên mà chỉ là người giỗi bắt chước những kiểu mẫu sẵn.  Có muốn hơn người thì họ chỉ cốt ra tay cho khéo cốt làm cho thật tỉ mỉ, thật tinh tế, thật dụng công, chỉ cốt xếp đặt các bộ phận cho xinh xắn lộng lẫy.

Tính chất đặc biệt của nghệ thuật Việt Nam là tính trang sức.  Nó thiếu hẳn hoạt khí, vì cách biển hóa tuy lưu động mà ở trong phạm vi hình thức, cách phối hợp tuy phiền phức mà ở trong phạm vi thái độ chế kiểu.

11- Lối tính toán thiển cận
Lương Dũ Thúc
("Nông cổ mím đàm," năm 1901)
("Việt Nam phong tục," năm 1915)
Cách đại thương (1) là có gan làm giàu. Coi người ta phí (2) là bao nhiêu tiền bạc mà không sợ mất, là vì người ta tiên liệu đại lợi, kể chi sự phí.  Chớ như người bổn quốc ta, muốn cho thấy trước mắt có lợi mới chịu làm.  Nếu đem đại thương mà sánh với bán hàng bông (3) thì bán hàng bông ắt thấy lợi trước mắt, hễ mua sớm mai thì chiều thấy lợi, còn mua chiều sáng thấy, chớ như đại thương thì ít nữa là năm năm còn nhiều hơn là mười năm mới thấy lợi.  Song so lợi dễ thấy thì là lợi ít, cái lợi mà lâu thấy thì thật lớn lắm.

Người nước nào đều có ngay gian xấu tốt, họ không phải là tiên phật chi hơn mình, song họ làm rồi thì quen, còn người mình không làm, nên cứ nghi hoặc hoài mà thôi.

(1) Buôn bán lớn.
(2) Bỏ tiền của ra sử dụng.
(3) Bán hoa quả bông trái.

12- Mê tín gây nhiều lãng phí
Phan Kế Bính
("Việt Nam phong tục," năm 1915)
Lễ kỳ (1) an chủ ý là trừ khử ma quỷ cho dân xã bình an. Ta lại tin theo Phật thuyết (2), bày ra vàng mã, nào mũ Ngọc Hoàng, nào tượng Minh Vương, nào âm quan quỷ tốt, chiến khí binh tiền được việc cũng cam, nhưng nào có được việc gì đâu, rút lại chỉ tại ta tin nhảm.

(1) Kỳ đây là cầu.
(2) Theo tôi (người viết / Trần Văn Giang) Cụ Phan Kế Bính có lẽ hiểu lầm (!?) Phật thuyết của Phật giáo về vấn đề đốt vàng mã, mũ Ngọc Hoàng v..v... Đốt vàng mã không phải là sản phẩm của Phật giáo mà là sản phẩm của mấy ông nhà Nho Trung Hoa truyền sang Việt Nam dưới thời Việt Nam bị đô hộ. Một số các thầy "cúng," những người nầy không phải là các Sư Tăng đạo Phật, vẫn còn dùng cái hủ tục mê tín dị đoan này vì nhiều người Việt nẫn còn tin!

13- Không ai chuyên nhất việc gì
Tân Việt (*)
("Mỗi người một việc" - Đông Pháp thời báo, năm 1928)
Các nước phú cường, người nào làm việc gì.  Nhà khoa học lo cả đời phát minh, người làm giàu thì cứ việc làm giàu. Còn nước ta thì không thế. Một người làm năm bảy việc, trong khi làm bầu gánh hát bộ, lại có xuất bản một cuốn tiểu thuyết ái tình, lại có mở một cửa hàng tạp hóa, ít lúc chi đó lại vọt xuống tàu sang Pháp làm chính trị.

Người ngoại quốc thấy vậy, cho rằng chúng ta có lòng ham hố quá, hoặc cho rằng không có đức chuyên nhất, không có tính nhẫn nại.

(*) Một bút danh mà Diệp Văn Kỳ và Phan Khôi ký chung trên Đông Pháp thời báo 1928 (theo Lại Nguyên Ân). Nghe giọng (văn phong) thì người viết ở đây có lẽ là Diệp Văn Kỳ (?)

14- Dễ dãi trong tiếp nhận nên hỏng việc
Phạm Quỳnh
("Giải nghĩa đồng hóa," Nam Phong, năm 1931)
Người An Nam vốn có cái thiên tính dễ đồng hóa (1), dễ am hiểu, dễ thu nạp lấy những cái khác lạ với mình, dễ đem những điều hay điều dở của người mà hóa (2) làm của mình, nhưng cái tài đồng hóa đó thường thường chỉ là cái khóe tinh (3), biết xem xét và bắt chước của người, chỉ phảng phất ở bề ngoài chứ không thấu triệt được đến chỗ căn để (4) chỗ tinh túy.

Tỷ như thợ An Nam thì phóng chép tài lắm, những hình dáng kỳ đến đâu, những kiểu cách lạ đến đâu, họ cũng bắt chước được như hệt cả.

Học trò ta học rất mau, nhớ cũng rất mau, nhưng chưa chắc đã hiểu thấu đã hóa được những cái người ta dạy mình.

Một người trí não khô cạn hay là vì không được tiêm nhiễm những cái tinh hoa của nòi giống mà thành ra khó cạn đi - một người như thế không thể không thể nào hiểu thấu được cái tinh thần của Tây phương. Có đồng hóa chỉ đồng hóa được cái bề ngoài, chỉ bắt chước được cái hình thức.

Cái cách đồng hóa dễ dàng thô thiển đó thiết tưởng không phải là cái tính tốt, mà có thể cho là cái tính xấu được. Chưa chắc cái học tiếp thu được dễ dàng như vậy đã làm cho óc được khôn ra, người được chín ra chút nào.

Đồng hóa một cách cấp tốc, một cách vô độ há chẳng phải là hại hơn lợi?

(1) Tiếp nhận.
(2) Biến cải.
(3) Ngón nghề, mánh lới.
(4) Gốc rễ, cơ bản.

15- Quá tin ở những điều viển vông
Phan Bội Châu
("Cao đẳng quốc dân," năm 1928)
Mê tín sinh ra những việc nực cười. Ngày giờ nào cũng là trời bầy định mà bảo rằng có ngày dữ ngày lành, núi sông nào cũng là đất tự nhiên mà bảo rằng có đất tốt đất xấu, vì nấu ăn mới có bếp mà bảo rằng có ông thần táo, vì che mưa gió mới có nhà mà bảo rằng có ông thần nhà, cho đến thần cửa thần đường, thần cầu tài, thần cầu tử, trăm việc gì cũng trông mong vào thần, kết quả thần chẳng thấy đâu, chỉ thấy những cửa nát nhà tan, của mòn người hết, tin thần bao nhiêu thì tai họa bấy nhiêu...

16- Tầm thường hóa những giáo lý sâu xa
Phan Kế Bính
("Việt Nam phong tục," năm 1915)
Phật giáo là một tôn giáo riêng, cũng có lý tưởng. Mà lời thiện ác báo ứng cũng đủ khuyên răn người. Nhưng hiềm ta không cứu (1) đến nguyên lý mà chỉ tin những lời trần hủ (2), sùng tín cái vỏ xác ngoài còn cái lý cao xa của người ta, không mấy người nghĩ đến.  Đã không ích gì, mà làm hại của cải cũng chỉ bởi lòng tin sai vậy.

(1) Xét đoán, tra hỏi.
(2) Cũ kỹ, không hợp thời.

17- Vớ được sách nào theo sách ấy
Nguyễn Văn Vĩnh
("Hương Sơn hành trình," Đông Dương Tạp chí, năm 1914)
Có kẻ sáng ngày ra vào phủ thờ bà cô, ông mãnh nào, chiều lại vào làm tôi con ông Trần Hưng Đạo là thần hay trị những tà ma, những ông hoàng bà chúa. Đến sáng hôm sau cũng người ấy có thể chay lòng thực dạ mà nghe giảng những lời đạo đức của ông Khổng, ông này không có dạy phải tin thờ ông thần ông thánh nào cả hoặc là đi lễ Phật là một đạo trái hẳn với mọi ma thiêng thần dữ.

Nói rút lại, thì người An Nam ta tin bậy hình như theo lý tưởng này: Dẫu không có mà tin cũng chẳng hề chi, ngộ có mà không tin, có lẽ hại đến mình. Cho nên cứ tin liều đi.

Người ta theo lý tưởng ấy cho nên sinh ra những đạo không có tôn chỉ, quy tắc pháp ở trong tay mấy anh sư mô, thầy cúng, ngày nay làm theo sách này, ngày mai bịa ra sách khác, có ngược nhau cũng chẳng ai bảo sao. Mà người tin, người tộc trưởng, người làm lễ tang lễ hỷ, cũng cứ tùy bện mà theo, vớ được sách nào theo sách ấy, tùy cách lịch sự tùy gia tư (1) mà theo lễ này hay lễ kia, chứ không theo tôn chỉ nào cả.

Còn như sự đi chùa Hương và các chùa chiền khác, nhiều người cho như một cái tật của các cụ già và của người đàn bà. Cũng có kẻ bảo là việc hay, cũng có người cho là việc dở. Hay là vì các bà các cô đi lễ bái như thể nó cũng thêm được cái dáng đạo đức, cái nếp nhà ra một chút.  Dở là vì các bà ganh nhau tốn kém và mấy ông sư ông vả lại cũng chưa quên hẳn sự đời.

(1) Của cải, tài sản trong gia đình.

18- Đời sống tôn giáo hời hợt
Nguyễn Văn Huyên
("Hương Sơn hành trình," Đông Dương Tạp chí, năm 1914)
Mặc dù sự có mặt của vô số ma quỷ và thần linh, người Việt vẫn có một đời sống tôn giáo không lấy gì làm sâu sắc cho lắm. Người ta chỉ có những niềm tin mơ hồ về linh hồn, về sự sống ở thế giới bên kia, về các thần. Một số lớn thần được định tính không rõ ràng và thường thường là phi nhân cách. Không có sự giáo dục tôn giáo cụ thể, cũng như không có sự tuyên truyền tôn giáo có tổ chức.

Mọi người chỉ cầu tới tôn giáo do nhu cầu vật chất. Ở một số trường hợp, người ta tìm kiếm một kết quả trước mắt như khỏi bệnh, có con, có tiền tài.  Người ta cũng cầu thần để cho đời sống một người đã khuất ở thế giới bên kia được dễ dàng, để thi đỗ, để nhanh chóng trong một việc, để đi xa một chuyển được bình yên... Thường thường trong ý thức dân gian, tôn giáo được quy lại chỉ còn là một lô thực hành thờ cúng đã trở thành bắt buộc.  Lễ nghi là tất cả, nó đôi khi bao gồm những nghi thức rắc rối hoặc núp dưới một hình thức long trọng có tính cách bề ngoài.

19- Từ ảo tưởng tới thoái hoá
Phan Khôi
(Báo Thần chung, năm 1929)
Mấy trăm năm nay, thuyết minh đức tân dân (1) làm hại cho sĩ phu nhiều lắm, nhất là trong thời đại khoa cử thịnh hành. Buổi còn đang đi học thì người nào cũng nhằm vào hai chữ tân dân đó mà ôm những hy vọng hăo huyền, cứ tưởng rằng mình ngày sau sẽ làm ông nọ bà kia, sẽ kinh bang tế thế, rồi mình sẽ thượng trí quan, hạ trạch dân, làm nên công nghiệp (2) ghi vào thanh sử (3) đến đời đời, không ngờ thi không đậu hay đậu mà không làm ra trò chi, thì trở nên thất vọng, thiếu điều ngă ngửa người ra, tay chân xuôi lơ và bủn rủn.

Còn người khác đắc thời, thi đậu ra làm quan thì lại ỉ rằng bấy lâu mình đă có cái công phu minh đức, nghĩa là mình đă học giỏi rồi, thì bây giờ cứ việc thôi sờ học ư sở hành, chớ có lo chi.

Bởi vậy nên có những ông thượng thư bộ hộ mà làm chẳng chạy bốn phép toán, thượng thư bộ binh mà cả đời chẳng biết đến cái lưng con ngựa ra sao cái cò khẩu súng là gì. Mà rồi ông quan nào cũng như thượng đế cả, nghĩa là toàn trí, toàn năng (!)

(1) Trích từ câu đầu tiên của sách Đại học, có nghĩa làm sáng đức và khiến dân luôn luôn đổi mới.
(2) Cũng tức là sự nghiệp.
(3) Thanh sét thời cổ ở Trung Quốc dùng thẻ tre để chép sử, nên lịch sử thường được gọi là thanh sử.

20- Chăm học nhưng chưa thoát khỏi tư cách học trò
Phạm Quỳnh
("Bàn về quốc học," Nam phong, 1931)
Nước ta vẫn có tiếng là ham học, nhưng cả nước ví như một cái trường học lớn, cả năm thầy trò chỉ ôn lại mấy quyển sách giáo khoa cũ, hết năm này đến năm khác, già đời vẫn không khỏi cái tư cách làm học trò!

Ấy cái tình trạng nước ta, sự học từ xưa đến nay và hiện ngay bây giờ cũng vẫn thế… Xưa khi học sách Tàu thì làm học trò Tàu, ngày nay học sách Tây chỉ làm học trò Tây mà thôi… chưa mấy ai là rơ rệt có cái tư cách – đừng nói đến tư cách nữa, hăy nói có cái hy vọng mà thôi – muốn độc lập trong cơi tư tưởng cả.

Như vậy thì ra giống ta chung kiếp (1) chỉ làm nô lệ về đường tinh thần hay sao? Hay là tại thần trí của ta nó bạc nhược quá không đủ cho ta cái óc tự lập.

(1) Suốt đời.

21- Không có can đảm là mình
Nguyễn Duy Thanh
("Muốn cho tiếng An Nam giàu," báo Phụ nữ tân văn, 1929)
Ông Dorgelès trong quyển "Con đường cái quan" có nói đến thói hay bắt chước của người mình. Đại khái ông nói rằng: "Ngày xưa người Tàu sang cai trị An Nam, người An Nam đều nhất nhất theo Tàu cả. Nay người Pháp sang bảo hộ mới được gần một trăm năm, mà nhà cửa đă theo Tây thời rất dễ dàng, nói đến tiếng An Nam thời khô khan, hình như phải dịch tiếng mình ra tiếng nước ngoài… Khoa học có nói rằng giống thằn lằn hễ bám vào cây nào thì lâu dần sẽ giống da cây ấy. Ở bên An Nam này thời không thế, thằn lằn không đổi màu da mà chính cây đổi màu da để lấy màu da thằn lằn."

Câu nói đau đớn thay mà xét người ta nói cũng phải. …Người viết văn phải có can đảm mà dịch những chữ nước ngoài ra. Mở đầu có hơi ngang tai, sau dần rồi cũng nghe được. Cụ Nguyễn Du không can đảm sao dịch nổi chữ tang thương ra chữ bể dâu, chữ thiết diện ra chữ mặt sắt (1)… Mà cũng lạ thay cho người mình không suy xét kỹ: Người Tàu nói chữ vân cẩu tang thương có khác gì chữ mây chó chữ bể dâu không. Ấy thế mà giá mình nói "Bức tranh mây chó vẽ người bể dâu" (2) tất phần nhiều người cho là mách qué! Người Tàu trước kia làm gì có những tiếng cộng hòa, cách mạng, cá nhân, vật lý học, kỷ hà học (3)… Vì sốt sắng làm cho tiếng nước nhà giàu thêm lên, nên họ không ngại khó, rồi mới đặt ra được cái tiếng ấy. Người mình thì không thế. Muốn dịch một chữ Pháp hay chữ Anh ra tiếng nước nhà mà không dịch nổi, thì cứ việc mở ngay tự vị (4) Tàu ra, trong ấy đă sẵn sàng cả rồi. Dù người Tàu có dịch sai chăng nữa cũng mặc cứ cắm đầu cắm cổ mà chép, ai biết đến đó mà lo.

(1) Hai câu nguyên văn trong Truyện Kiều: "Trải qua một cuộc bể dâu" và "Lạ cho mặt sắt cũng ngây vi tính."
(2) Một câu trong "Cung oán ngâm khúc." "Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương."
(3) Tức hình học.
(4) Tức từ điển.

22- Thạo sử người hơn sử mình
Hoàng Cao Khải
("Việt sử yếu," 1914)
Sĩ tử khắp nước ta làu thông kinh sách mà không biết đất đai của nước ta và ṇi giống dân ta như thế nào. Họ chỉ biết Hán Cao Tổ, Đường Thái Tông mà không biết Đinh Tiên Hoàng, Lê Thái Tổ ra làm sao. Họ chỉ biết Khổng Minh, Địch Nhân Kiệt mà không biết các bề tôi Tô Hiến Thành, Trần Quốc Tuấn thờ vua giúp nước như thế nào. Họ chỉ biết núi Thái Sơn cao chót vót, sông Hoàng Hà sâu thăm thẳm, nhưng không hề hay biết núi Tản Viên từ đâu tới, sông Cửu Long ở Nam Kỳ – phát nguyên từ nơi nào. Ưa chuộng phong tục nước ngoài cho nên bao nhiêu nghi lễ về quan hôn tang tế (1), chúng ta đều bắt chước người Trung Hoa cả. Lại c̣òn lấy kỹ nghệ nước ngoài làm ưa thích. Đă không chịu học hỏi cách biến chế, óc sáng kiến của họ, mà tại đi tiêu thụ hàng hóa giúp cho họ. Đa số những vật liệu như đồ sứ, hàng tơ, lụa, hàng thêu, hàng đoạn (2)… chúng ta đều đi mua sắm từ bên Trung Quốc về dùng. Rồi dần đà lâu ngày, linh hồn của dân tự nhiên bị đổi dời, trí năo của dân ta tự nhiên bị bưng bít mà ta không hề biết, chỉ vì cái cớ chúng ta cứ chuyên trọng Bắc sứ (3) mà thôi.

(1) Các việc thuộc về đình đám, ma chay, cưới xin…
(2) Hàng dệt bằng tơ, mặt bóng mịn.
(3) Tức lịch sử Trung Hoa.

23- Đầu óc vọng ngoại và hay kỳ thị (**)
Luôn luôn có đầu óc vọng ngoại, nghĩa là tôn sùng hàng (ngoại) hóa và người ngoại quốc – những gì đến từ bên ngoài Việt Nam đều tốt đẹp hơn ở nội địa. Có lẽ vì dân trí mình còn thấp kém lại bị ngoại quốc đô hộ quá lâu - trên ngàn năm. Đã đành là đối với người ngoại quốc thì e sợ, nhát nhúa, nhưng đối với nhau thì lại thích hống hách và kỳ thị.

Người mình có đủ mọi kiểu kỳ thị: Tôn giáo (Phật giáo, Công giáo, Hoà hảo, Cao đài, Tin lành v.v..); Địa phương (nơi, miền); Sinh trưởng (Nam, Trung, Bắc); Sắc dân (Kinh, Thượng, Cao miên, Chàm, Trung hoa…); Bằng cấp và Xuất xứ được đào tạo giáo dục (truờng Việt, trường Mỹ, truờng Tây, trường Tầu, trường Liên xô…)

Sang sống tị nạn ở hải ngoại, sau khi ăn nên làm ra, cũng thấy bắt đầu dở mòi kỳ thị người thiểu số, da mầu bản xứ (da đen và da nâu / Mễ) nhiều khi tính kỳ thị của người mình còn hơn cả người Da trắng chính gốc bản địa nữa (!)

24- Vô kỷ luật (**)
Bất cứ ở đâu cũng có thể lấy thịt đè người, to tiếng, chen lấn vô trật tự, khinh thường người khác có vẻ nhỏ bé, nhã nhặn hơn mặc dù chưa (hoặc chẳng cần) hiểu rõ họ là ai?  Ở những nơi như chợ búa, hàng quán… Những nơi cần phải được xếp hàng theo thứ tự, tuần tự thì phe ta cứ tự tiện bất chấp luật lệ, lẽ phải tự nhiên ("common senses"), cứ tranh dành thế nào để rồi chen lấn, xô đẩy xếp thành một hàng ngang thôi mới vừa ý – hàng ngang có nghĩa rằng mọi người đều là số 1, không ai chịu thua kém ai?  Thiệt tình, dân mình thiếu hẳn cái "văn hóa xếp hàng!" – Người nào hung bạo nhất, to tiếng nhất thì người đó cũng tự cho mình có cái quyền phải được phục vụ trước (?)  Hay thật!

Sau biến cố tháng 4 năm 1975, người Việt Nam di tản đi tị nạn cộng sản khắp thế giới, sau khi đã được định cư ở những nước văn minh Âu Mỹ thì Cộng Đồng Việt Nam bị những sắc dân bản xứ và thiểu số khác coi thường chỉ vì cái "thói quen cố hữu 4000 năm chen lấn" này.

Vấn đề "vô kỷ luật," thiếu lịch sự tối thiểu còn được thấy ngay trong các dịp đi dự tiệc cưới, họp mặt, lễ lạc, giờ hẹn phòng mạch bác sĩ…  Cứ tự nhiên đi trễ cả tiếng đồng hồ sau giờ ấn định làm các quan khách, các thân hữu, người phục vụ phải chờ đợi trông ngóng mệt mỏi.  Sự trễ nãi lạc hậu này đã trở thành một hủ tục gắn liền với người Việt Nam. Đến nỗi tại hải ngoại có câu vè châm biếm:

"Không ăn đậu ("bean") không phải Mễ,
Không đi trễ không phải Việt Nam…"

Trần Văn Giang
(Ghi lại và viết thêm 2 mục)

Chú thích:
(**) TVG viết thêm 2 tiểu mục số 23 và 24.

20 May 2015

Chuyện về cái lý lịch

Văn Quang - Viết từ Sài Gòn ngày 18.05.2015

Chuyện về cái lý lịch

Ở VN bạn muốn làm gì, muốn thi cử vào đâu, muốn hành nghề gì đều phải khai lý lịch, thậm chí theo quy định của nhà nước cứ đến 80 tuổi là người dân được hưởng trợ cấp mỗi tháng khoảng hơn hai trăm ngàn tiền VN, vậy mà trong bản khai cũng có mục lý lịch, năm nào ở đâu, làm gì…

Từ 40 năm nay, chủ nghĩa lý lịch vẫn còn tồn tại. Chẳng nhìn ở đâu xa, bạn hãy cứ nhìn những anh em thương phế binh VNCH sống lay lắt vất vưởng ra sao giữa những thôn xóm hoặc ngay giữa đường phố Sài Gòn. Họ chẳng được hưởng bất cứ một quyền lợi nào của người thương binh. Thậm chí có người đã phải tự thiêu vì quá nghèo, không muốn làm khổ con cháu.
Anh Nguyễn Văn Báu, thương binh VNCH khi còn sống cụt hai chân. Anh đã tự thiêu đêm 27 tháng 7 năm 2008.

Thê thảm hơn nữa người tự thiêu ở nhà thuê, sợ cháy nhà con cháu phải bồi thường nên bò ra bãi đất trống, đổ xăng lên người rồi tự thiêu. Chuyện này tôi đã tường thuật cùng bạn đọc ngày 3 tháng 8 năm 2008. Bạn có thể xem toàn văn qua bài viết "Câu chuyện thương tâm của một anh thương phế binh VNCH" . Trong khi thương binh của miền Bắc đều được hưởng phụ cấp và nhiều thứ ưu tiên khác.
Thẻ quân nhân QL/VNCH vẫn theo anh cho đến ngày anh tự thiêu.
Chỉ cần nhìn thế thôi bạn đã thấy rõ cái "chủ nghĩa lý lịch" nặng nề biết chừng nào! Kêu gọi "hòa hợp hòa giải dân tộc", muốn phát triển và muốn kén chọn nhân tài về phục vụ đất nước thì trước hết phải làm cho tuyệt nọc cái thứ chủ nghĩa phân biệt đối xử này.

Nhân ở đây, tôi xin chân thành hoan nghênh một số hội đoàn và nhiều vị nhân sĩ trí thức ở Mỹ đang có chương trình vận động chính phủ Hoa Kỳ cho phép mở lại chương trình HO để các anh em thương phế binh VNCH được đi định cư tại Mỹ.

Đó là một sự công bằng cần thiết dành cho người thương binh Việt Nam Cộng Hoà, một thời chiến đấu hy sinh một phần thân thể cho tự do dân chủ.
Anh Châu Kim Hàng, cấp bậc Hạ sĩ nhất, trên đường phố Saigon không biết làm gì để sống.
Tôi tin rằng sẽ được cộng đồng người Việt ở khắp nơi hưởng ứng yểm trợ cho chương trình tốt đẹp này. Dù kết quả có thế nào thì anh em cũng cảm thấy được an ủi, bớt tủi thân trong cuộc sống đấy khổ cực cay đắng này. Tuy nhiên tôi vẫn hy vọng cuộc vận động sẽ thành công bởi lẽ phải và mọi sự thật được phơi bày sẽ làm rung động những tấm lòng nhân ái.
 
Còn cái Nghĩa trang Quân Đội VNCH cũng biến mất, bức tượng Tiếc Thương bị lật đổ chổng vó lên trời để phô bày cái hình ảnh "chiến thắng" của phe thắng cuộc. Mãi sau đó bị dư luận chê trách mới chuyển thành nghĩa trang dân sự, bỏ mặc cho cỏ lau dày đặc và các nấm mồ liệt sĩ lâu dần trờ thành hoang phế. Sau này một số thân nhân liệt sĩ mới được xin phép vào tu sửa.

Hãy nhìn ra các nước, sau những cuộc nội chiến, chiến binh tử sĩ hai bên đều nằm chung trong một nghĩa trang được chăm sóc quy mô, trang trọng. Bởi cả hai bên đều là những chiến sĩ hy sinh thân mình để bảo vệ hạnh phúc của người dân.

Còn phân biệt đối xử cả với người chết thì chính sách nhân đạo ở đâu, làm sao hòa hợp hòa giải được?

Bao giờ có một cái nghĩa trang chung cho cả hai bên, lúc đó mới nhìn thấy nhà nước có thiện chí sửa chữa những sai lầm, tiến tới những mục đích khác.

Trở về với chuyện "cái lý lịch", chuyện mới nhất hiện đang được các nhà gọi là trí thức ở VN đang bàn tán xôn xao trên khắp các trang báo trang mạng ở VN lúc này đó là cuộc thi tuyển, sát hạch công chức ở Hà Nội.

Mọi kiểu thi cử chỉ là hình thức… cho ra vẻ công tâm mà thôi
Mới đây, Sở Nội vụ TP. Hà Nội công bố kết quả kiểm tra, sát hạch công chức thuộc diện đặc cách xét tuyển năm 2015. Trong đó, có 30/63 thí sinh đã không vượt qua được kỳ kiểm tra, sát hạch này. Đáng lưu ý, có 5 người là thạc sĩ loại giỏi, xuất sắc ở nước ngoài, số còn lại đều là thủ khoa xuất sắc trong nước, cử nhân có bằng loại giỏi ở nước ngoài.

Hàng trăm ứng viên chen lấn nhau trong kỳ thi tuyển công chức ở VN.
"Tôi làm bài tốt, sao lại trượt?"
Anh Quang bày tỏ: "Ngay lúc nộp hồ sơ, nhà tuyển dụng chỉ nhận bằng và bảng điểm của tôi. Các văn bằng chứng chỉ khác cũng như quá trình làm việc công tác của tôi, nhà tuyển dụng đều không nhận. Như vậy, vô hình trung đã đánh đồng tôi với các ứng viên khác".

Anh Nam, thạc sĩ tốt nghiệp loại giỏi ở nước ngoài chia sẻ, chuyên ngành anh ứng tuyển chỉ có một mình anh, không phải cạnh tranh với ai. Do đó, chỉ cần đạt 50 điểm là anh sẽ đỗ. Tuy nhiên, kết quả của anh lại không như mong đợi, anh được dưới 50 điểm và trượt công chức.
Anh phân trần: "Tôi thấy kết quả không phản ánh đúng bài thi. Mặc dù có 2 câu hỏi không nằm trong nội dung ôn tập nhưng tôi vẫn làm được, vì tôi đã từng đọc qua trong quá trình công tác. Đặc biệt là ở vòng phỏng vấn, có 3 người trong Hội đồng sát hạch nhưng không có ghi âm, không có giám sát và cũng không biết giám khảo chấm điểm thế nào?

Anh Nam nhận xét: "Câu hỏi trong kỳ thi sát hạch vừa rồi chưa hợp lý, thi như vậy chỉ dành cho người học thuộc lòng. Câu hỏi đưa ra cần phải yêu cầu ứng viên vận dụng kiến thức văn bản pháp luật, kiến thức chuyên ngành đã được học để xử lý tình huống hoặc cho đề bài, soạn thảo đáp án trên máy tính và đứng thuyết trình đáp án đó cho hội đồng sát hạch. Mấy câu hỏi học thuộc lòng vậy làm sao đánh giá được trình độ?"

GS Huỳnh Hữu Tuệ, giảng viên Trường Đại học Laval (Canada) cho biết: Cách thi tuyển công chức của Sở Nội Vụ Hà Nội không phù hợp với kiến thức được đào tạo của các thí sinh có trình độ chuyên môn. Ông Tuệ cũng cho biết, ở nước ngoài thi công đơn giản hơn nhiều. Họ chỉ cần dựa vào bằng cấp và vượt qua vòng phỏng vấn về kiến thức, tâm lý, bản lĩnh và tinh thần trách nhiệm là có thể đỗ công chức.

Bản chất của vấn đề thi cử này là cái lý lịch
Luật sư Trần Quốc Thuận, nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội cũng phải lên tiếng thừa nhận bản chất của những cuộc thi như thế này:

Thứ nhất: "Quan trọng là người đứng đầu có quyết tâm chọn người tài hay không".
Ý kiến này rất xác đáng, nếu người đứng đầu quyết tâm chọn người tài thì chắc chắn sẽ tìm ra người tài. Còn nếu ngược lại, họ tuyển người vì tiền, vì quan hệ, vì hậu duệ, con cháu, dòng họ, thì họ có đủ mọi mưu chước để đánh rớt người tài, đưa người được sắp xếp từ trước vào (chữ nghĩa bây giờ ở VN gọi là cơ cấu). Mọi kiểu thi cử chỉ là hình thức, chẳng qua thi là "làm phép".
 
Tích xưa tuồng cũ đã có nhiều chuyện hay về việc quyết tâm chọn người tài, tìm người tài. Như chuyện "tam cố thảo lư" còn lưu truyền mãi trong dân gian.
 
Sau khi Từ Thứ đến với Tào Tháo, Lưu Bị tìm đến Long Trung để thỉnh cầu ông ra giúp nhưng hai lần đầu không gặp mãi đến lần thứ ba mới gặp được nên mới có câu "Lưu Bị tam cố thảo lư cầu hiền". Lưu Bị được Lượng nói kế sách định quốc an bang vô cùng kính phục, muốn mời Gia Cát Lượng xuống núi mưu tính đại sự.

Gia Cát Lượng thấy Lưu Bị thật lòng cầu xin nên ông chấp nhận làm quân sư cho Lưu Bị. Năm đó Gia Cát Lượng mới có 27 tuổi chính thức bước vào vũ đài chính trị và làm nên những chiến thắng lẫy lừng như trận Xích Bích và nhiều chiến thắng vang dội khác.
 
Thứ hai: theo luật sư Trần Quốc Thuận: "Định nghĩa chữ "tài" tùy thuộc vào mỗi nước có quan điểm khác nhau. Tài ở nước ngoài là giỏi về chuyên môn, giỏi về kỹ thuật, giỏi về ngoại ngữ, giỏi về vi tính… còn ở nước mình, tài còn phải kèm theo một thứ: đó là lý lịch".

Luật sư Trần Quốc Thuận đã rất thẳng thắn khi nói đến hai chữ "lý lịch". Dù đất nước trong 40 năm qua đã có không ít ý kiến lên tiếng xóa bỏ lằn ranh phân biệt đối xử, nhưng "chủ nghĩa lý lịch" vẫn cứ tồn tại, cản trở sự đóng góp, cống hiến và phát triển của rất nhiều người có năng lực thực sự.

"Tất cả các cuộc thi dù bắt buộc có chuyên môn, ngoại ngữ, tin học, nhưng đó là cái bề nổi, còn ẩn chứa đằng sau, cuộc sát hạch lý lịch mới là cốt yếu. Đã có một thời, người ta công khai đưa lý lịch ra làm môn thi. Nay tuy không nói ra, nhưng nó vẫn còn chi phối ít nhiều…".

Một khi người đứng đầu không quyết tâm chọn người tài. Một khi còn "chủ nghĩa lý lịch", thì mọi kiểu thi cử chỉ là hình thức.

Mọi sự đều đã sắp đặt hết
Khi phóng viên hỏi: Thi công chức, nhiều người cho rằng là kỳ thi tiêu cực nhất hiện nay, nếu không có tiền là không đỗ, ông nghĩ sao?

Ông Trần Quốc Thuận, nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội trả lời:
"Việc tiêu cực trong thi tuyển công chức nói từ lâu rồi. Thi gì cũng tiêu cực, tiêu cực từ lộ đề thi trước, đánh dấu trong những bài chấm, thậm chí người thi còn được đưa đề giải trước mang vào phòng thi chỉ việc chép vào bài… việc này cũng nói nhiều rồi.

Cho nên, bộ máy ở trên đã không trong sạch thì làm sao mà có sự trong sạch từ dưới được. Nếu người ở trên  không muốn tuyển dụng người tài và tuyển dụng với lý do lợi ích khác thì sẽ tạo nên lợi ích liền sau khi thi.

PV: Thưa ông, đây có phải là vấn đề nhức nhối trong xã hội mà khó giải quyết không?

Ông Thuận: "Quá nhức nhối đi chứ vì cửa vào hé rất nhỏ. Những người vào là những người đã được chuẩn bị sẵn rồi. Mặc dù thi công khai nhưng còn vấn đề lý lịch nữa.

Cũng về ý công khai như ông nói, nhiều ý kiến cho rằng, mặc dù thi công chức luôn tổ chức công khai (công khai về chỉ tiêu, tiêu chí, điểm số…) nhưng dưới sự  công khai này là ẩn chứa sự sắp đặt hết".

Để kết luận cho bài này mời bạn đọc một trong hàng trăm lời phê phán của độc giả ở VN.

-  Bạn Trần Ngọc Hải viết:
"Khổ lắm. Biết rồi nói mãi. Thi công chức ở Thủ đô bao nhiêu năm nay số người đỗ đạt vẫn rơi vào đối tượng "biên chế". Phần lớn là con ông cháu cha, người thân quan và có cả chạy chọt nữa. Nếu lôi bài thi ra đọ thật, thì kể cả thủ khoa xuất sắc hay thạc sỹ tốt nghiệp ở nước ngoài cũng chào thua. Họ có kế hoạch, chỉ tiêu và sắp xếp hết cả rồi. Hi..hi vui lắm ! Tôi đã thu lượm được kha khá minh chứng thông tin những vụ chạy chọt thi tuyển công chức buồn cười lắm, chỉ tốn có 2-3 trăm triệu thôi, từ một nhân viên (người quen bạn tôi) không hiểu gì về tin học cơ bản, không soạn thảo được văn bản thông thường, ấy thế mà trúng tuyển một cách ngoạn mục vượt qua cả những thí sinh được đào tạo ở nước ngoài về. Giờ thì đang chễm chệ làm "sếp" ở TP. HCM rồi."
 
Như thế thì thi cử chẳng qua là một trò bịp. Anh là dân đen, nhất là có dính dáng tới "phản động, Mỹ Ngụy" thì đừng bao giờ dại dột mất công đèn sách vác giấy bút đi thi vào làm công chức ở bất cứ ngành nào. Hãy tìm đến các công ty kinh doanh tư nhân của nước ngoài, hy vọng bạn sẽ được trọng dụng. Hy vọng thôi bởi ngay ở các doanh nghiệp tư này cũng bị áp lực phải ưu tiên cho con ông, cháu cha mới sống được./-

Văn Quang